Nhắc đến Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, người ta nhớ ngay đến nữ bác sĩ tiên phong đưa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về Việt Nam. Bà được ví như “bà Tiên” đã mang lại niềm hạnh phúc làm cha mẹ cho hàng vạn gia đình hiếm muộn.
Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ.
Người mở cánh cửa sự sống, nữ bác sĩ tiên phong IVF ở Việt Nam
Ở đầu thập niên 1990, khi khái niệm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) còn xa lạ với hầu hết người Việt, GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã dấn thân vào hành trình gian khó, mở ra con đường chưa từng có trong ngành y học sinh sản nước nhà.
Trong quá trình khám chữa cho bệnh nhân tại Bệnh viện Từ Dũ, bà phát hiện ra rất nhiều phụ nữ không sinh được con. Trong đó, có một cô gái trẻ đẹp, đã cắt cả hai vòi trứng nên không thể sinh con theo cách thông thường. Cô ấy nói, nếu không được giúp đỡ, cô sẽ tự tử vì không chịu nổi sự ruồng bỏ từ chồng và gia đình chồng.
“Chứng kiến nỗi đau ấy, tôi quyết tâm bằng mọi giá phải đưa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về Việt Nam", GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ.
Năm 1984, trong chuyến công tác tại Bangkok, GS Phượng tranh thủ từng giờ để vào thư viện tìm hiểu tài liệu về hiếm muộn. Ở đó, bà biết đến phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, thành tựu y học vừa được thực hiện thành công ở Anh năm 1978.
Trở về nước, bà kiên trì gõ cửa từng đoàn chuyên gia quốc tế ghé thăm Từ Dũ để xin hỗ trợ thiết bị, nhưng không ai tin. Giữa lúc Việt Nam đang đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình, việc theo đuổi IVF bị xem là “đi ngược dòng”, song bà vẫn bền bỉ không bỏ cuộc.
Ca mổ tách cặp song sinh hai cháu Việt - Đức ngày 4/10/1988 tại Bệnh viện Từ Dũ.
Năm 1994, sau ca mổ tách song sinh Việt – Đức thành công, bà được Bộ Y tế cử sang Pháp làm tiến sĩ. Ngoài giờ giảng dạy, bà tranh thủ đến các trung tâm IVF học hỏi, ghi chép tỉ mỉ từng quy trình, từng loại thiết bị, ăn uống kham khổ để có tiết kiệm tiền mua thiết bị mang về.
Năm 1995, bà trở lại Việt Nam với gần đủ thiết bị cho phòng thí nghiệm và gửi bác sĩ trẻ sang Pháp học thêm. Hai năm sau, sau nhiều lần xin phép, Bộ Y tế chính thức chấp thuận để Bệnh viện Từ Dũ thực hiện IVF. Ngày 19/8/1997, bà trực tiếp tiến hành ca đầu tiên, và chỉ hai tuần sau, hơn 10 phụ nữ trong nhóm thử nghiệm đã mang thai, niềm hạnh phúc vỡ òa trong nước mắt.
Sáng 30/4/1998, ba em bé đầu tiên chào đời khỏe mạnh, đánh dấu cột mốc Việt Nam chính thức làm chủ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Ngay đợt đầu, ê-kíp Từ Dũ thực hiện 36 ca, 13 ca thành công, đạt tỷ lệ 33%. Thành công ấy mở ra nền móng cho ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam và được nhân rộng trên toàn quốc.
Hơn hai thập niên sau, Việt Nam đã có hơn 60 trung tâm IVF, hàng trăm nghìn em bé chào đời từ ống nghiệm. Tỷ lệ thành công tại nhiều bệnh viện đạt trên 50%, ngang tầm Singapore, Úc, Mỹ. Nhưng với Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Phượng, phần thưởng lớn nhất vẫn là tiếng khóc chào đời của những sinh linh từng tưởng không thể hiện hữu trên thế gian này.
Gần 40 năm miệt mài đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam
Ngoài những thành tựu rực rỡ trong ngành Y, GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng còn dành gần 40 năm cuộc đời để nghiên cứu và đấu tranh cho công lý của các nạn nhân chất độc da cam, một hành trình đầy gian nan, đòi hỏi sự kiên trì, bản lĩnh và lòng nhân ái sâu sắc.
GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng (hàng đầu, thứ 3 từ trái sang) tại phiên điều trần trước Hạ viện Mỹ năm 2010. Ảnh: Tư liệu TTXVN.
Khoảng năm 1966, khi đang công tác tại Bệnh viện Từ Dũ, bà vô tình đỡ đẻ cho một thai nhi vô sọ. Cú sốc ấy khiến người bác sĩ trẻ không thể nguôi ngoai. Bà bắt đầu tìm hiểu, và phát hiện ra có nhiều trường hợp tương tự – những đứa trẻ sinh ra với các dị tật nghiêm trọng, mà thời đó chưa ai lý giải được nguyên nhân. Không chấp nhận sự mơ hồ, bà xin giữ lại các mẫu bào thai dị tật để nghiên cứu, đặt nền móng cho quá trình tìm hiểu tác hại của dioxin sau này.
Từ những nghiên cứu ban đầu, bà nhận thấy ở Việt Nam có 5 nhóm dị tật bẩm sinh phổ biến: dị tật ống thần kinh, nứt đốt sống, khuyết tật tay chân, khuyết tật cơ quan giác quan (mắt, mũi, tai, miệng) và song thai dính nhau. Những phát hiện ấy trở thành tư liệu quý trong các công trình khoa học về hậu quả chiến tranh hóa học đối với thế hệ sau.
Năm 1984, khi sang Mỹ dự hội nghị khoa học, bà mang theo toàn bộ tài liệu nghiên cứu về dị tật bẩm sinh ở trẻ em Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ từ chối cho phép công bố. Không nản chí, bà tiếp tục hoàn thiện công trình, và đến năm 1989, bài viết đầu tiên của bà mới được đăng tại Anh.
Sau nhiều công sức, tại cuộc Đối thoại Việt - Mỹ, nước Mỹ đã cam kết chi khoảng 300 triệu USD để tẩy độc sân bay và hỗ trợ y tế. Trong cuộc chiến này bà luôn nhận được sự ủng hộ của Đảng và Nhà nước, của các bạn bè, chuyên gia quốc tế như nhóm Hatfield (Canada).
Năm 2024, bà được trao giải thưởng Ramon Magsaysay, được xem là giải "Nobel châu Á", ghi nhận sự cống hiến và tinh thần phục vụ cộng đồng của bà. Theo Ban tổ chức giải thưởng công việc của bà là lời cảnh báo nghiêm trọng cho thế giới tránh chiến tranh bằng mọi giá vì hậu quả bi thảm của nó có thể kéo dài đến tận tương lai. Quỹ Giải thưởng Ramon Magsaysay cũng nhấn mạnh: "Không bao giờ là quá muộn để sửa chữa sai lầm của chiến tranh, giành lại công lý và cứu trợ cho những nạn nhân bất hạnh".
GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng sinh năm 1944, hiện là Phó Chủ tịch không chuyên trách Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam.
Trước đó, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng nguyên là Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ TP.HCM, nguyên Viện trưởng Viện Tim TP.HCM, nguyên Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Mỹ Thành phố. Bà đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân và Huân chương Lao động hạng Ba.
Mai Nguyễn