Nhà thơ Anh Thơ (1918-2005)
Nữ sĩ Anh thơ tên thật là Vương Kiều Ân, quê ở Bắc Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Bà xuất hiện bừng sáng trong phong trào thơ mới bên cạnh các nhà thơ tên tuổi của đất nước: Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ... Năm 1939, bà đạt giải thưởng thơ của Tự lực Văn đoàn. Khi mới thoát ly gia đình theo cách mạng, bà hoạt động trong phong trào phụ nữ của Khu hội, từng là Bí thư Huyện hội phụ nữ của các huyện: Việt Yên, Lục Ngạn, Hữu Lũng (Bắc Giang cũ), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Ủy viên Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Lạng Sơn. Sinh thời những tháng ngày xây dựng, phát triển phong trào phụ nữ ở Hữu Lũng, Bắc Sơn đã được bà kể lại khá chi tiết trong hồi ký “Tiếng chim tu hú” của mình. Qua đó giúp ta hiểu rõ hơn hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Kể chuyện Vũ Lăng” vốn được rất nhiều người yêu thích.
Năm 1947, khi đang làm cán bộ phụ nữ của huyện Hữu Lũng, Anh Thơ nhận được quyết định điều về huyện Bắc Sơn công tác vì ở đó đang thiếu Hội trưởng phụ nữ. Một phần cũng là do bà có năng lực vận động quần chúng bằng thơ nên được cử về, vì bà là người “đáp ứng yêu cầu của địa phương có dân chúng đều thích đàn tính và hát thơ!”. Để thuận lợi cho công việc của một cán bộ miền xuôi đến công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, huyện đã cử “hai người phụ nữ Thổ” trợ giúp bà. Một trong hai người đó là chị Lủ - một người vợ liệt sĩ có chồng hy sinh trong khởi nghĩa Bắc Sơn, mẹ của hai chiến sĩ Vệ quốc đoàn đang xa nhà đi kháng chiến. Sau chị trở thành Hội trưởng Hội phụ nữ huyện Bắc Sơn.
Ngày về Vũ Lăng gặp chị, ấn tượng đầu tiên in đậm trong tâm trí Anh Thơ là hình dáng một sơn nữ áo xanh đang nghiêng mình vác bó củi đi xuống trong màn sương chiều tĩnh lặng của núi rừng Bắc Sơn. Khi viết“Kể chuyện Vũ Lăng” bà đã chọn đưa hình ảnh gợi cảm đó vào câu thơ mở đầu trong bài thơ của mình:
Người đàn bà ấy áo xanh
Chiều chiều bó củi nghiêng mình xuống nương
Trong ngôi nhà sàn “hiu hắt gió khuya” ở Vũ Lăng chỉ còn chị “Với nương, bắp, ruộng sớm chiều một thân”. Hàng ngày chị tích cực tham gia hoạt động đoàn thể nên được cử vào huyện bộ để cùng nữ sĩ Anh Thơ xây dựng phong trào phụ nữ của huyện. Cuộc sống tuy đơn côi, vất vả nhưng ấm áp, tràn đầy niềm vui tự do, độc lập. Những tháng ngày ‘ba cùng” (cùng làm, cùng ăn, cùng ở) vận động quần chúng chống xâm lăng, diệt giặc đói, trừ giặc dốt, Anh Thơ đã tiếp xúc với nhiều phụ nữ, được họ chia sẻ những câu chuyện về gia đình, làng xóm, quê hương... Bà đã vô cùng xúc động, cảm kích trước những hy sinh, mất mát của người dân nơi đây, đặc biệt là gia đình chị Lủ. Mặc dù nghèo khổ, neo đơn, chịu nhiều đau thương, mất mát nhưng chị vẫn hết lòng vì việc đoàn thể. Ngay từ khi mới gặp lần đầu, nữ sĩ Anh Thơ đã ấp ủ ý định viết về chị Lủ vì bà nghĩ gia cảnh của chị thế “chắc sẽ có nhiều tâm sự!”. Theo lời kể của bà, sau một thời gian đi công tác ở các xã trong huyện Bắc Sơn, một lần, nhớ chị Lủ bà tìm về Vũ Lăng thăm chị. Khi đến nơi vừa lúc sẩm tối, sau bữa cơm chiều, bên bếp lửa nhà sản, trong tiếng sè sè buồn tẻ của guồng quay sợi, Anh Thơ đã được nghe chị Lủ kể về cuộc đời mình: “Xưa kia cảnh nhà chị rất vui. Chồng chị làm khỏe, ăn cơm bắp rất nhiều. Hai con tuy trần người, không có quần áo nhưng rất đẹp và khỏe. Chỉ phải tội nghèo, vì làm ra bao nhiêu cũng đóng thuế, nộp tô, nộp sưu hết. Thương vợ con đói rách, chồng chị theo người ta đi đánh Tây. Được vài trận vui lắm. Anh em đồng chí cươi nói đầy nhà. Nhưng rồi quân nó có súng nhiều, đến bao vây Vũ Lăng, chồng chị và du kích bị chúng bắt trói, mang đi đâu đến bây giờ cả làng và chị cũng không biết. Nhưng ngay đêm đó, chị sợ chúng bắt nốt hai con. Phải đứa dắt tay, đứa địu trên lưng chạy vào hang núi. Rồi hái lá, đào củ ăn sống qua ngày. Cách mạng về, chị được chia ruộng, hai con đã lớn, cùng xin đi Vệ Quốc đoàn để trả thù cho bố. Bây giờ không ai phải nộp tô, nộp sưu nữa. Chị sống một mình, vui với ruộng rẫy, vui với chị em. Hầu hết là những vợ góa của du kích Bắc Sơn. Làng bây giờ còn toàn đàn bà, như chị thấy đó...”. Xúc động trước câu chuyện của chị Lủ, về ngôi làng “toàn những đàn bà”, ngay trong đêm đó, bên ánh lửa nhà sàn, nữ sĩ Anh Thơ đã viết xong truyện thơ “Kể chuyện Vũ Lăng”. Bài thơ kể về số phận một gia đình nhưng chứa đựng không gian rộng lớn của lịch sử cách mạng Bắc Sơn trải dài từ khi cuộc khởi nghĩa nổ ra năm 1940 cho đến những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948).
Bài thơ là một “câu chuyện” bằng thơ tái hiện khá đầy đủ những nét cơ bản của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn từ nguyên nhân, diễn biến cho đến kết quả, ý nghĩa. Ở đó chúng ta thấy cuộc sống đói nghèo, lam lũ của người nông dân dưới ách thống trị của thực dân phong kiến; những người nông dân bị áp bức đã hăng hái đi theo cách mạng, bằng những vũ khí thô sơ họ đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Bên cạnh đó là tội ác dã man của thực dân Pháp khi chúng điên cuồng tàn sát, khủng bố nhân dân, bắt bớ giam cầm những người tham gia khởi nghĩa và cuộc sống vui tươi của nhân dân Vũ Lăng khi nước nhà tự do, độc lập... Tinh thần cách mạng cao cả của người dân Bắc Sơn cũng được tác giả khắc họa khá đậm nét khi họ luôn vượt qua mọi khó khăn thử thách, những đau thương mất mát cá nhân để chống lại kẻ thù, chung tay xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước...
Viết “Kể chuyện Vũ Lăng”, nhà thơ Anh Thơ không chỉ ngợi ca hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ mà còn như một sự “trả nghĩa” với mảnh đất Bắc Sơn giàu truyền thống cách mạng. Theo nữ sĩ Anh Thơ, khi được xem bài thơ này, nhà thơ Xuân Diệu đã rất mừng và thốt lên “Bài thơ Kể chuyện Vũ Lăng là một bài thơ hay của cách mạng!”. Năm 1957, tập thơ Kể chuyện Vũ Lăng của Anh Thơ được Tặng thưởng trong cuộc thi thơ của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức. Năm 2001 truyện thơ Kể chuyện Vũ Lăng là một trong ba tác phẩm của bà được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt đầu. Bài thơ mang vẻ đẹp bình dị như chính sự mộc mạc, chân chất và tấm lòng nhân hậu của người Bắc Sơn. Nhẹ nhàng, sâu lắng, tràn đầy xúc cảm, “Kể chuyện Vũ Lăng” đưa ta về với những năm tháng không thể nào quên của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn oai hùng trong lịch sử, về với vùng chiến khu Cách mạng trung dũng, kiên cường của đất nước. Cùng với bài hát “Bắc Sơn” của nhạc sĩ Văn Cao, kịch “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng, nữ sĩ Anh Thơ đã góp thêm một thi phẩm hay viết về khởi nghĩa Bắc Sơn cho Văn học nghệ thuật Cách mạng Việt Nam. Những câu thơ in đậm trong tâm trí người đọc, có sức sống lâu bền đã góp phần làm cho sự kiện khởi nghĩa Bắc Sơn ngày 27/9/1940 sáng mãi cùng ký ức dân tộc và trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
*Bài viết dựa trên cơ sở nghiên cứu Tiểu sử, sự nghiệp văn học, tác phẩm, hồi ký... của nhà thơ Anh Thơ (các chữ trong ngoặc kép là trích dẫn từ hồi ký của bà)
Chu Quế Ngân