Lòng hồ thủy điện Trung Xuân được người dân tận dụng mặt nước lòng hồ để nuôi các loại cá nước ngọt.
Sáng sớm, con đường dẫn vào xã Trung Hạ còn phủ mờ sương núi. Khi mặt trời vừa ló rạng, hồ thủy điện Trung Xuân hiện ra trước mắt tôi như một tấm gương khổng lồ xanh biếc, lặng lẽ nằm giữa đại ngàn. Trên mặt hồ tĩnh lặng, những dãy lồng cá nối tiếp nhau, neo chắc chắn bằng những sợi dây lớn, xung quanh là những chiếc thuyền nhỏ khua sóng. Bức tranh bình yên ấy không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, mà còn phản ánh sự đổi thay trong sinh kế của người dân miền núi.
TỪ Ý TƯỞNG NHỎ THÀNH NGUỒN THU LỚN
Bên những lồng cá được chăng chắn kỹ lưỡng, ông Lò Văn Minh với làn da rám nắng, gương mặt hằn rõ dấu vết của nắng gió hồ hởi kể lại hành trình khởi nghiệp.
“Trước đây, gia đình tôi trông chờ vào vài sào ruộng, nương rẫy. Năm nào mưa thuận gió hòa thì tạm đủ ăn, nhưng cũng có khi mất mùa, cái đói rình rập. Khi hồ thủy điện tích nước, tôi cứ nghĩ nguồn lợi lớn thế này mà bỏ không thì phí. Tôi bàn với gia đình, mạnh dạn vay vốn làm thử mấy lồng nuôi cá".
"Ban đầu, tôi cũng cảm thấy lo lắng vì nghề này còn mới mẻ và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tuy nhiên, tôi đã quyết tâm tìm hiểu và nâng cao kiến thức của mình bằng cách tham gia các lớp tập huấn, đọc sách báo và tìm kiếm thông tin trên internet. Sau đó, tôi bắt đầu thử nghiệm nuôi cá trắm và rô phi. Đặc biệt, tôi đã mạnh dạn đưa cá lăng vào mô hình nuôi, một loại cá không chỉ lớn nhanh mà còn ít bị dịch bệnh và có giá trị kinh tế cao. Chỉ sau một năm, tình hình kinh tế gia đình tôi đã có sự chuyển biến rõ rệt," ông Minh chia sẻ.
Xã Trung Hạ đã có gần 80 hộ nuôi cá với khoảng 90 lồng.
Những lồng cá của ông Minh giờ đây có cả trắm cỏ, trắm đen, rô phi đơn tính, cá nheo và cá lăng. Mỗi loài được nuôi xen kẽ, tận dụng nguồn thức ăn có sẵn từ cỏ, lá chuối quanh bản. Nhờ vậy, chi phí giảm, cá phát triển tốt. Ông Minh bảo: “Nghề nuôi cá lồng không chỉ mang lại cái ăn cái mặc, mà còn giúp bà con dần thay đổi cách nghĩ, dám thử sức với cái mới.”
Điều đáng mừng là từ một vài hộ tiên phong, đến nay xã Trung Hạ đã có gần 80 hộ nuôi cá với khoảng 90 lồng, sản lượng mỗi năm đạt khoảng 15 tấn, doanh thu gần 1,5 tỷ đồng.
Ông Trần Văn Bồi, Phó Chủ tịch UBND xã Trung Hạ, cho biết “Nghề nuôi cá lồng bắt đầu từ năm 2019, ban đầu người dân còn e dè. Nhưng khi thấy hiệu quả rõ rệt, nhiều hộ đã mạnh dạn làm theo. Chúng tôi thành lập Tổ hợp tác nuôi cá lồng để hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ tiêu thụ. Đặc biệt, nguồn vốn tín chấp từ Ngân hàng Chính sách xã hội giúp bà con có vốn mở rộng sản xuất. Quan trọng hơn cả, nghề này đã tạo việc làm tại chỗ, góp phần giảm nghèo.”
Những năm gần đây, nghề nuôi cá lồng ở xã Trung Sơn đang phát triển mạnh nhờ khai thác tiềm năng, lợi thế của lòng hồ thủy điện, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy vậy, thực tế vẫn không ít gian nan. Mực nước hồ thủy điện thay đổi thất thường do lịch vận hành không cố định, có khi lồng cá mắc cạn khiến cá chết hàng loạt. Vào mùa mưa bão, dòng nước xiết đã từng cuốn trôi lồng bè của nhiều hộ. Chính quyền xã đang tính phương án phối hợp với Nhà máy Thủy điện Trung Xuân để thông báo lịch vận hành, giúp người dân chủ động hơn.
Rời Trung Hạ, tôi theo con đường quanh co men theo sườn núi đến xã Trung Sơn. Hồ thủy điện Trung Sơn hiện ra mênh mông với hàng chục bè cá neo dọc bờ. Trên bè, từng nhóm người đang rải thức ăn cho đàn cá bơi lượn.
Ông Nguyễn Biên Cương, Giám đốc HTX nuôi trồng thủy sản Cựu chiến binh Trung Sơn, tiếp tôi ngay trên chiếc bè nuôi của gia đình. Ông Cương chia sẻ: “Ngày trước chúng tôi chỉ biết đánh bắt tự nhiên, thậm chí có lúc tận diệt bằng lưới, bằng kích điện, cá trong hồ ngày càng cạn kiệt. Giờ thì khác, bà con đã quen với việc nuôi cá lồng. Riêng tôi từ chỗ có 2 lồng, nay đã lên 9 lồng, nuôi đủ loại trắm, chép, lăng đen, lăng hoa. Mỗi năm thu được 5–6 tấn cá, mang lại khoảng 180 triệu đồng. Thấy tôi làm được, nhiều hộ trong bản cũng theo, đến nay cả hồ đã có gần 50 hộ với hơn 110 lồng.”
Khẳng định việc nuôi cá lồng đã biến mặt nước hồ thủy điện thành nguồn sinh kế bền vững cho địa phương, bà Hà Thị Nga, Bí thư Đảng ủy xã Trung Sơn thông tin "thời gian tới, xã sẽ khuyến khích bà con mở rộng quy mô, xây dựng thương hiệu cá đặc sản địa phương, vừa nâng giá trị sản phẩm, vừa mở đường tiêu thụ ra thị trường.”
HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Xã Bá Thước, nơi ven hồ thủy điện Bá Thước 1 và 2, phong trào nuôi cá lồng cũng đang phát triển sôi động. Tại thôn Chiềng Ai, ông Trương Văn Tấn cho hay "trong những ngày đầu chỉ nuôi vài lồng, nhưng giống cá không rõ nguồn gốc, chậm lớn, hiệu quả thấp. Từ khi tham gia Tổ hội nông dân nghề nghiệp, được hướng dẫn kỹ thuật chọn giống, mật độ thả cá, cách vệ sinh lồng, phòng bệnh, đàn cá khỏe mạnh hẳn. Giờ mỗi năm gia đình tôi thu gần 6 tạ cá, thu nhập khoảng 50–70 triệu đồng.”
Ông Tấn đang chế biến thức ăn cho cá.
Không chỉ riêng ông Tấn, cả thôn nay đã có 48 hội viên Hội Nông dân tham gia nuôi hơn 100 lồng cá. Sản lượng trung bình mỗi năm đạt 12,5 tấn, giá bán 90.000 đồng/kg, mang lại hơn 1,1 tỷ đồng. Người dân tận dụng phế phẩm nông nghiệp như lá sắn, cỏ, chuối làm thức ăn, vừa tiết kiệm chi phí vừa giữ môi trường sạch.
Qua thực tế phát triển nuôi cá lồng của các hộ dân đã phản ánh rõ sự chuyển mình nơi miền núi. Từ cuộc sống phụ thuộc vào nương rẫy, nay nhiều hộ đã có nguồn thu nhập ổn định, vươn lên thoát nghèo nhờ nuôi cá lồng. Từng bản làng ven hồ giờ đây không chỉ có tiếng gà gáy, tiếng cối giã gạo, mà còn rộn rã tiếng quẫy nước của đàn cá, tiếng cười nói của bà con bên những bè cá đang ngày một đầy đặn.
Phần lớn các lồng nuôi các loại cá trắm cỏ, trắm đen, rô phi đơn tính, cá nheo và cả cá lăng
Mặc dù vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức như thiên tai và sự biến động của mực nước, nhưng người dân nơi đây có niềm tin vào tiềm năng phát triển nuôi cá lòng và cơ hội phát triển bền vững. Chính quyền địa phương đã xác định một hướng đi bền vững: tổ chức thêm các lớp tập huấn để nâng cao kỹ năng, khuyến khích mở rộng quy mô sản xuất, hỗ trợ tín dụng cho người dân, và thiết lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các nhà máy thủy điện nhằm đảm bảo an toàn cho các lồng bè.
Từ mặt nước xanh biếc giữa đại ngàn, một nghề mới đã ra đời, gắn bó với cuộc sống của bà con. Nuôi cá lồng trên lòng hồ thủy điện không chỉ mang lại thu nhập, mà còn mở ra hy vọng về một hướng phát triển bền vững cho vùng núi, nơi người dân đã và đang nỗ lực viết tiếp câu chuyện làm giàu từ chính quê hương mình.
Nhằm phát triển nghề nuôi cá lồng thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngày 28/12/2022, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 4716/QĐ-UBND, phê duyệt Đề án phát triển nuôi cá lồng giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, đến năm 2025, toàn tỉnh phấn đấu đạt 200ha diện tích nuôi với 3.700 lồng, sản lượng 6.650 tấn cá, tạo việc làm cho hơn 5.800 lao động. Đến năm 2030, diện tích nuôi dự kiến tăng lên hơn 310ha, với quy mô sản xuất hàng hóa ngày càng chuyên nghiệp, bền vững.
Nguyễn Thuấn