LTS: Chỉ đạo về sửa đổi Luật Đầu tư sáng 18/9 tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu: Quán triệt thực hiện đúng chỉ đạo tại Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; phải tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; đồng thời tháo gỡ những "điểm nghẽn" hiện hữu và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh thể hiện đúng tinh thần “chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát"; bảo đảm việc đặt ra ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là “vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”, còn lại triệt để cắt giảm theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Việc quy định ngành, nghề ưu đãi đầu tư cần bao quát hết chính sách phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân, năng lượng mới đã đề cập trong Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trên tinh thần đó, Tuần Việt Nam trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung về những “nút thắt thể chế” trong bản dự thảo đang được lấy ý kiến nhân dân.
Vì sao cơ chế chấp thuận chủ trương đầu tư và đăng ký đầu tư lại được coi là “đặc sản” riêng có của Việt Nam, và nó đang tạo ra những điểm nghẽn pháp lý nào đối với môi trường đầu tư – kinh doanh? Theo ông, dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) nên được thiết kế lại theo hướng nào để tiệm cận thông lệ quốc tế và tháo gỡ rào cản này?
Ông Nguyễn Đình Cung: Đúng là cơ chế chấp thuận chủ trương đầu tư và đăng ký đầu tư là một “đặc sản” pháp lý của Việt Nam, chỉ còn thấy ở Lào và Myanmar, trong khi Trung Quốc – vốn có truyền thống quản lý chặt – cũng đã cải cách, bãi bỏ để tiệm cận thông lệ quốc tế. Không quốc gia nào trên thế giới áp đặt cơ chế gia nhập thị trường theo hình thức tiền kiểm đối với hầu hết các dự án đầu tư như chúng ta đang làm. Đây chính là điểm nghẽn pháp lý lớn nhất, phổ biến nhất, và có lẽ cũng là rào cản lớn nhất đối với việc huy động và phân bổ nguồn lực cho phát triển.
Theo dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi), cơ chế phân loại dự án hiện vẫn rườm rà và mâu thuẫn. Cụ thể, dự thảo chia thành hai nhóm: (i) nhóm không phải chấp thuận chủ trương đầu tư; và (ii) nhóm phải chấp thuận chủ trương đầu tư. Trong nhóm (ii), lại xuất hiện một “ưu ái đặc biệt” cho một số dự án được phép chỉ đăng ký đầu tư mà không cần chấp thuận. Cách tiếp cận này thực chất là “chọn cho” – tức Nhà nước cho phép một số dự án được đặc quyền miễn thủ tục – trong khi thế giới đã loại bỏ cơ chế này từ lâu và đi theo hướng “chọn bỏ”, tức chỉ giữ lại rất ít dự án có rủi ro cao mới cần kiểm soát.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung
Tôi cho rằng dự thảo cần viết lại theo tư duy cải cách triệt để hơn. Cụ thể, nên thiết kế ba danh mục rõ ràng: Danh mục dự án không cần chấp thuận, không cần đăng ký đầu tư; Danh mục dự án chỉ cần đăng ký, không cần chấp thuận; Danh mục dự án phải chấp thuận chủ trương đầu tư.
Trên thực tế, dự thảo hiện chưa làm rõ: dự án không cần chấp thuận có bắt buộc đăng ký không? Hoặc dự án đã phải chấp thuận, liệu có cần đăng ký thêm nữa không? Những điểm mơ hồ này tạo ra gánh nặng thủ tục kép, làm giảm tính minh bạch và dự đoán của môi trường pháp lý.
Phương án cải cách khả dĩ nhất là: chỉ giữ lại một danh mục rất hẹp, gồm một số ít dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, còn lại toàn bộ dự án khác thì không phải chấp thuận cũng không cần đăng ký. Đây là thông lệ quốc tế phổ biến, vừa giảm rủi ro “xin – cho”, vừa giải phóng nguồn lực xã hội cho phát triển.
Tóm lại, trong quy định chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ quan nhà nước chấp thuận cả mục tiêu và quy mô đầu tư là can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, lại không có mục tiêu quản lý nhưng lại tạo ra nhiều rào cản vô lý, không chắc chắn, không an toàn; làm tăng chi phí, méo mó thị trường và mất cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp và dự thảo Luật Đầu tư Kinh doanh có những định nghĩa khác nhau về “kinh doanh” và “đầu tư kinh doanh”. Sự chồng lấn nhưng không thống nhất này đang dẫn đến những hệ quả pháp lý nào đối với doanh nghiệp và môi trường đầu tư?
Luật Doanh nghiệp đã định nghĩa khái niệm “kinh doanh” rõ ràng, thống nhất và từng điều chỉnh cả vấn đề “ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh” trước năm 2014. Tuy nhiên, khi các nội dung này bị chuyển sang Luật Đầu tư và mở rộng thành “đầu tư kinh doanh có điều kiện, điều kiện đầu tư kinh doanh”, khái niệm trở nên thiếu chính xác, sai lệch bản chất và tạo thêm nhiều rào cản vô lý cho hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Luật Doanh nghiệp định nghĩa “kinh doanh” theo nghĩa rộng, bao quát toàn bộ quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Trong khi đó, Luật Đầu tư lại định nghĩa “đầu tư kinh doanh” đơn thuần là việc bỏ vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh. Ở đây, “kinh doanh” trở thành tính từ để phân biệt với “đầu tư không nhằm mục đích kinh doanh”. Điều này khiến “đầu tư kinh doanh” chỉ là một bộ phận, một công đoạn nhỏ trong định nghĩa “kinh doanh” của Luật Doanh nghiệp.
Sự thiếu rạch ròi này dẫn tới nhiều hệ quả:
Thứ nhất, Luật Đầu tư đã chồng lấn sang phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, trong khi lẽ ra chỉ tập trung vào hình thành và vận hành dự án đầu tư (chủ trương, đăng ký, ưu đãi).
Thứ hai, toàn bộ các điều kiện đặt ra cho dự án đầu tư đều theo cơ chế tiền kiểm, không có hậu kiểm, tạo thêm gánh nặng thủ tục.
Thứ ba, định nghĩa về “điều kiện đầu tư kinh doanh” trong Luật Đầu tư thực chất chỉ là điều kiện để được phép bỏ vốn, chưa phải điều kiện cho hoạt động kinh doanh. Điều này buộc nhà đầu tư phải đáp ứng ngay từ khâu xin chấp thuận chủ trương hoặc đăng ký, biến mọi dự án – bất kể ngành nghề – đều bị coi là có điều kiện.
Cách tiếp cận này mâu thuẫn với tinh thần của Nghị quyết 66, 68 và chỉ đạo của Tổng Bí thư, vốn nhấn mạnh việc chuyển sang quản lý bằng quy chuẩn, tiêu chuẩn, tăng cường hậu kiểm dựa trên rủi ro và mức độ tuân thủ. Như vậy, thay vì tạo thuận lợi, luật hiện hành và dự thảo đang siết chặt thêm, làm suy giảm tính minh bạch và cản trở dòng vốn đầu tư.
Ông có thể lấy ví dụ cụ thể?
Dự thảo quy định điều kiện đầu tư kinh doanh được áp dụng dưới các hình thức:
a) Giấy phép;
b) Giấy chứng nhận;
c) Chứng chỉ;
d) Văn bản xác nhận hoặc chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Các yêu cầu khác mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để được phép đầu tư kinh doanh, kể cả khi không cần văn bản xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Đáng chú ý, dự thảo loại trừ quy chuẩn và tiêu chuẩn do cơ quan có thẩm quyền ban hành khỏi phạm vi điều kiện đầu tư kinh doanh. Quy định này bộc lộ nhiều hạn chế:
Thứ nhất, vẫn thiên về tư duy tiền kiểm. Cách thiết kế tiếp tục mang tính cấm đoán, hạn chế và kiểm soát, thay vì chuyển hẳn sang tư duy mới theo hướng hậu kiểm, tạo thuận lợi và hỗ trợ hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, không phân định rõ tiền kiểm – hậu kiểm. Điều khoản hiện tại dẫn đến cách hiểu rằng mỗi ngành, nghề kinh doanh đều có cả tiền kiểm và hậu kiểm, gây chồng chéo và khó áp dụng.
Thứ ba, không phù hợp với chủ trương cải cách. Quy định này đi ngược lại Nghị quyết 66, 68 và chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm ở ít nhất hai điểm: (i) phải chuyển điều kiện kinh doanh thành quy chuẩn, tiêu chuẩn; (ii) việc thực hiện điều kiện kinh doanh chủ yếu phải theo cơ chế hậu kiểm, dựa trên mức độ rủi ro của hàng hóa, dịch vụ và lịch sử tuân thủ của doanh nghiệp.
Tóm lại, các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong dự thảo Luật Đầu tư cần được sửa đổi ngay để tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn”:
Thứ nhất, phân biệt rõ điều kiện áp dụng cho dự án đầu tư với điều kiện áp dụng cho hoạt động kinh doanh trong ngành, nghề có điều kiện.
Thứ hai, xóa bỏ tư duy mặc định rằng mọi dự án đầu tư đều phải chịu điều kiện tiền kiểm.
Thứ ba, đưa lại quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh về Luật Doanh nghiệp như trước năm 2014.
Thứ tư, thiết kế hệ thống điều kiện theo tư duy cải cách: lấy hậu kiểm làm chính, quản lý dựa trên quy chuẩn – tiêu chuẩn, hạn chế tối đa cơ chế tiền kiểm và “xin – cho” như trong dự thảo hiện nay.
Các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh trong dự thảo Luật Đầu tư cần được sửa đổi ngay để tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Ảnh: Nguyễn Huế
Ông đánh giá thế nào về các quy định ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trong dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi)? Cách tiếp cận hiện nay có điểm gì lạc hậu, chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới và quan điểm trong Nghị quyết 50/2019 của Bộ Chính trị?
Chế độ ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trong dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) vẫn đi theo lối mòn: ưu đãi theo ngành, theo vùng, sử dụng các công cụ cũ như thuế, đất đai, kế toán. Dù dự thảo có bổ sung nguyên tắc “áp dụng ưu đãi theo thời hạn và kết quả thực hiện dự án”, nhưng lại không đưa ra tiêu chí để đo lường “kết quả”, khiến quy định thiếu khả thi.
Cách tiếp cận này đi ngược quan điểm của Nghị quyết 50/2019, vốn nhấn mạnh phải thu hút đầu tư có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường làm tiêu chí then chốt; ưu tiên dự án công nghệ tiên tiến, sạch, có giá trị gia tăng và tác động lan tỏa. Muốn vậy, cần xác lập rõ các chỉ số đánh giá chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và mức độ lan tỏa của dự án.
Tóm lại, các quy định về ưu đãi đầu tư trong dự thảo hiện nay vừa lạc hậu, vừa không đáp ứng được yêu cầu cải cách, chưa theo kịp mục tiêu nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước.
Quy định về việc dừng hoạt động dự án đầu tư trong dự thảo Luật Đầu tư đang gây nhiều tranh cãi. Theo ông, cơ chế hiện nay có bất cập gì, so với thông lệ quốc tế, và cần được điều chỉnh theo hướng nào để vừa đảm bảo thượng tôn pháp luật vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư?
Quy định về dừng hoạt động dự án đầu tư hiện bộc lộ nhiều bất cập. Nếu Nhà nước yêu cầu dừng, thì phải bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp; còn nếu doanh nghiệp vi phạm môi trường, an ninh hay pháp luật khác, thì cơ quan chuyên ngành tương ứng phải xử lý, không cần dẫn chiếu qua Luật Đầu tư. Việc gắn mục tiêu, quy mô dự án vào thủ tục chấp thuận chủ trương khiến cơ quan quản lý can thiệp sâu vào quyền tự chủ, làm phát sinh rào cản, tăng rủi ro pháp lý và khiến nhà đầu tư nản lòng.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, kể cả khi doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng, biện pháp xử lý chủ yếu là phạt nặng, buộc khắc phục, chứ không dừng dự án, bởi việc dừng sẽ ảnh hưởng đến nhiều bên liên quan. Nếu Nhà nước tùy tiện quyết định dừng, câu hỏi đặt ra là Nhà nước có chịu trách nhiệm bồi thường không? Nếu không, nguy cơ kiện tụng quốc tế đối với cơ quan quản lý là điều khó tránh.
Tóm lại, Luật Đầu tư như hiện nay chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Nó đang là một nút thắt cha với hàng trăm nút thắt con… tạo thành điểm nghẽn bao trùm lên môi trường đầu tư kinh doanh ở nước ta. Vì vậy, nếu vẫn giữ nó như dự thảo hiện nay, thì điểm nghẽn của điểm nghẽn trong pháp luật về kinh doanh ở Việt Nam chắc chắn không tháo bỏ được.
Bộ Tài chính nhận thấy thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư có vai trò như sau:
Thứ nhất, chấp thuận chủ trương đầu tư là cơ sở, văn bản pháp lý ghi nhận, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong việc thực hiện dự án đầu tư, bảo đảm việc thực hiện các cam kết của nhà nước với nhà đầu tư về ưu đãi đầu tư, các chính sách đặc biệt đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận; đồng thời quy định các yêu cầu, điều kiện để thực hiện dự án đối với nhà đầu tư.
Thứ hai, việc chấp thuận chủ trương đầu tư là công cụ sàng lọc các dự án nhạy cảm, có tác động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh, môi trường, là công cụ để kiểm soát, đảm bảo an toàn và phát triển bền vững. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia (trong đó bao gồm Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Australia, Trung Quốc….) đều duy trì cơ chế rà soát/cấp phép tương tự như thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu tư theo các tiêu chí nêu trên, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư là thủ tục tích hợp các nội dung liên quan đến quy hoạch, đất đai, môi trường, xây dựng... Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư thẩm định đồng thời các nội dung này ngay từ giai đoạn chuẩn bị thực hiện dự án nhằm cắt giảm thời gian và chi phí thực hiện so với việc thực hiện từng thủ tục độc lập về đất đai, quy hoạch, xây dựng…
Bên cạnh đó, việc thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư giúp cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư có thể xem xét tổng thể dự án đầu tư trong mối quan hệ với các pháp luật chuyên ngành để đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội, tính khả thi của dự án đầu tư. Trường hợp không thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư mà chỉ thực hiện thủ tục theo pháp luật chuyên ngành, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành chỉ có thể đánh giá dự án đầu tư theo khía cạnh quản lý nhà nước của cơ quan đó mà thiếu tính tổng thể, đồng bộ, chưa thực sự đảm bảo được hiệu quả, tính khả thi của dự án.
Thứ tư, quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư là thủ tục đầu vào của các thủ tục hành chính để thực hiện các thủ tục tiếp theo để triển khai thực hiện dự án đầu tư như thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, giao khu vực biển, cấp phép xây dựng, môi trường… Việc bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ dẫn đến yêu cầu sửa đổi căn bản toàn bộ hệ thống pháp luật có liên quan đến đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu, nhà ở…, làm mất ổn định môi trường đầu tư kinh doanh do sự thay đổi chính sách, pháp luật.
Thứ năm, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư tại Luật Đầu tư tạo ra tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, tránh tình trạng “trăm hoa đua nở” về trình tự, thủ tục thực hiện dự án của các luật chuyên ngành, tạo môi trường đầu tư minh bạch, rõ ràng, dễ tiếp cận cho nhà đầu tư.
Thứ sáu, quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư là công cụ để thực hiện việc kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư của nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư.
Do vậy, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư là thủ tục cần thiết trong quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Tuy nhiên, cần tiếp tục sửa đổi để hoàn thiện quy định này nhằm tháo gỡ các khó khăn vướng mắc và đẩy nhanh quá trình thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với quy định của pháp luật có liên quan.
Tư Giang
Lan Anh