Theo báo cáo của Cục Thống kê - Bộ Tài chính, sản lượng ôtô nội địa tại Việt Nam trong 3 quý đầu năm ước đạt 338.400 xe, tăng trưởng hơn 52% so với cùng kỳ năm ngoái. Hoạt động lắp ráp ôtô trong nước ngày một phát triển, nhưng vị thế ngành công nghiệp ôtô Việt Nam nhìn chung chưa thật sự cao và còn tiềm năng lớn.
Dữ liệu thu thập bởi Hiệp hội sản xuất Ôtô Đông Nam Á (AAF) cho thấy trong giai đoạn 11 tháng đầu năm ngoái, Việt Nam vẫn chỉ đứng thứ tư khu vực Đông Nam Á về sản lượng xe nội địa. Các quốc gia xếp trên Việt Nam gồm Thái Lan, Indonesia và Malaysia.
Tỷ lệ nội địa hóa chung của ngành còn chưa cao là một phần lý do khiến Việt Nam chưa thể trở thành "công xưởng" ôtô khu vực.
Bức tranh nội địa hóa ôtô
Trong khuôn khổ phiên họp cấp cao "Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam lần thứ nhất" năm 2025, ông Vũ Văn Tiền - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Geleximco - đã có phát biểu đáng chú ý về ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam cũng như tỷ lệ nội địa hóa hiện tại.
"Mấy chục năm nay nền công nghiệp chế tạo của chúng ta được nhà nước ủng hộ và hỗ trợ rất nhiều, nhưng không đột phá được. Tỷ lệ nội địa hóa với ôtô chỉ đạt 5-20%, máy móc thiết bị khoảng 25-30%, phần lớn giá trị gia tăng vẫn nằm ở nước ngoài", ông Vũ Văn Tiền chia sẻ.
Dù vậy, thực tế chỉ ra bức tranh "nội địa hóa ôtô" tại Việt Nam là không quá bi quan như những gì vị Chủ tịch Geleximco chia sẻ.
Trước khi Geleximco và tập đoàn Chery của Trung Quốc bắt tay xây dựng nhà máy lắp ráp ôtô các thương hiệu Omoda và Jaecoo tại Việt Nam, nhiều hãng xe quốc tế đã chọn nước ta làm địa chỉ thiết lập nhà máy.
Chẳng hạn, Toyota, Honda, Suzuki, Isuzu hay Mercedes-Benz đã có hàng chục năm vận hành nhà máy tại Việt Nam. Nhiều cái tên trong số này hiện sở hữu tỷ lệ nội địa hóa khá cao.
Tính đến tháng 2/2023, hầu hết ôtô thương hiệu Toyota lắp ráp tại Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa 40%. Riêng với Toyota Vios, tỷ lệ nội địa hóa trên mẫu sedan cỡ B lên đến 43% nếu tính theo công thức giá trị gia tăng của ASEAN.
Toyota Vios có tỷ lệ nội địa hóa trên 40%. Ảnh: TMV.
Danh sách các nhà cung cấp của Toyota tính đến tháng 2/2023 sở hữu 58 cái tên, trong đó có đến 12 nhà cung cấp thuần Việt. Tổng số sản phẩm nội địa hóa trên ôtô Toyota đạt 1.000 sản phẩm các loại.
Thaco hiện là cái tên phụ trách lắp ráp ôtô của nhiều thương hiệu quốc tế tại Việt Nam, bao gồm Kia, Mazda, Peugeot và cả BMW.
Thaco cũng là đơn vị đã có thể chủ động nhiều loại linh kiện và phụ tùng ôtô, như ghế, linh kiện nội thất, kính, dây điện, nhíp; linh kiện composite; sản xuất khuôn, máy lạnh xe du lịch, máy lạnh xe tải, bus; linh kiện nhựa; thân vỏ ôtô...
Thaco cũng cung ứng linh kiện OEM cho nhiều hãng ôtô và xe máy tại Việt Nam như Hyundai, Toyota, Isuzu, Piaggio cùng với loạt doanh nghiệp FDI khác, thậm chí đã xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài bao gồm Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia...
Cuối năm 2024, VinFast cho biết tỷ lệ nội địa hóa của ôtô điện thương hiệu đã đạt hơn 60%, trong đó có thân vỏ, động cơ, trần xe hay bộ giảm xóc. VinFast đặt mục tiêu nâng tỷ lệ này lên thêm 20%, dự kiến đạt tỷ lệ nội địa hóa 80% vào năm 2026.
VinFast cho biết tỷ lệ nội địa hóa trên ôtô của hãng hiện đạt trên 60%. Ảnh: VinFast.
Việc VinFast sở hữu tỷ lệ nội địa hóa hơn 60% là đáng ghi nhận, bởi hãng này chính thức thành lập vào năm 2017, nhà máy chỉ bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2019. Sau khoảng 6 năm, VinFast đã đạt tỷ lệ nội địa hóa trên 60%, phản ánh nỗ lực của hãng trong gia tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Cơ sở nào để gia tăng tỷ lệ nội địa hóa
Tỷ lệ nội địa hóa có thể xem là một trong những yếu tố giúp ngành công nghiệp ôtô của một quốc gia "tăng hạng". Ở Indonesia và Thái Lan, có khoảng 90% linh kiện, phụ tùng trên ôtô được sản xuất trong nước.
Hai nước này đang dẫn đầu về lượng ôtô sản xuất, lắp ráp trong nước. Thị trường ôtô ở Thái Lan và Indonesia cũng nằm trong nhóm sở hữu doanh số cao hàng đầu khu vực, cùng với Malaysia theo dữ liệu của AAF.
Nhìn lại 2 cái tên tiêu biểu trên bản đồ ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đang có tỷ lệ nội địa hóa cao, cả Toyota và VinFast đều nắm trong tay "miếng bánh" thị phần tương đối lớn.
Năm ngoái, VinFast trở thành hãng xe bán chạy nhất Việt Nam nhờ sở hữu doanh số trên 87.000 xe. Toyota đứng thứ hai, tổng doanh số đạt 66.576 xe sau 12 tháng.
VinFast lên ngôi toàn thị trường Việt năm ngoái nhờ bán hơn 87.000 xe. Ảnh: VinFast.
Như vậy, có thể lập luận sơ bộ rằng để đạt được tỷ lệ nội địa hóa cao, ôtô lắp ráp của hãng phải có được sức bán tốt trên thị trường.
Câu chuyện này gần giống nghịch lý "con gà - quả trứng", khi một hãng xe muốn giảm chi phí chung bằng cách tăng tỷ lệ nội địa hóa sẽ phải cần doanh số tốt để tối ưu kết quả đầu ra của chiến lược này. Ngược lại, một hãng xe chưa có thị phần lớn sẽ khó nâng tỷ lệ nội địa hóa, bởi không nhiều đối tác sẵn lòng bắt tay, khả năng tối ưu chi phí cũng là một dấu hỏi.
Nhìn chung, việc các hãng xe mới ồ ạt đổ bộ Việt Nam, chọn nước ta làm địa chỉ xây dựng nhà máy là tin tốt cho ngành công nghiệp lắp ráp ôtô tại Việt Nam. Hoạt động lắp ráp, sản xuất ôtô trong nước phát triển cũng mở ra cơ hội cho ngành công nghiệp phụ trợ, từ đó cải thiện tỷ lệ nội địa hóa cho từng dòng xe, hãng xe và chung toàn ngành.
Tính đến hiện tại, bức tranh nội địa hóa ôtô tại Việt Nam đã không còn sơ sài như các năm trước đây. Các đơn vị có thâm niên và sở hữu thị phần lớn đều đang có được tỷ lệ nội địa hóa khá cao, vượt xa con số 5-20%.
Vẫn còn một chặng đường dài để ôtô lắp ráp tại Việt Nam đạt tỷ lệ nội địa hóa xấp xỉ 90% như Thái Lan hay Indonesia. Với đà phát triển hiện tại của ngành cũng như tiềm năng thị trường xe Việt, mục tiêu "nâng tầm" ngành công nghiệp ôtô Việt Nam được kỳ vọng sẽ sớm hoàn thành trong tương lai.
Tất nhiên hãng xe nào muốn chiếm lĩnh thị phần sẽ phải đầu tư vào sản xuất, trong đó có việc gia tăng tỉ lệ nội địa hóa để chủ động nguồn cung và giảm chi phí. Các hãng xe còn lại dù có nhà máy nhưng không quyết liệt đầu tư vào sản xuất hoặc chờ đợi hưởng lợi từ công nghiệp phụ trợ sẵn có nhờ các hãng xe khác xây dựng, cũng sẽ khó có được doanh số tốt.
Cuộc chơi của thị trường ôtô Việt đã khốc liệt hơn rất nhiều so với 15-20 năm trước, không ít hãng xe đã đóng cửa nhà máy và coi như là "bước lùi" trong việc chiếm lĩnh thị phần. Ai quyết tâm và có tiềm lực tốt sẽ hái quả ngọt, ai yếu thế sẽ phải lùi bước và nhường "miếng bánh" trăm triệu dân cho kẻ mạnh.
Phúc Hậu