Petrovietnam đang định hình cấu trúc năng lượng mới của Việt Nam

Petrovietnam đang định hình cấu trúc năng lượng mới của Việt Nam
10 giờ trướcBài gốc
Trong bối cảnh ngành năng lượng đứng trước yêu cầu chuyển dịch mạnh mẽ, bảo đảm an ninh năng lượng và duy trì tăng trưởng xanh, vai trò của Petrovietnam ngày càng có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế. Với những dự án quy mô lớn trải dài từ Bắc Trung Bộ đến miền Trung, đặc biệt tại Thanh Hóa, Petrovietnam không chỉ đóng góp quan trọng cho ngân sách mà còn tạo động lực phát triển công nghiệp, hạ tầng và việc làm cho khu vực. Từ thực tiễn này, bền lề Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, PetroTimes đã có cuộc trao đổi với ĐBQH Cầm Thị Mẫn (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa), nhằm ghi nhận đánh giá và kỳ vọng của đại biểu về đóng góp của Petrovietnam cũng như những cơ chế cần thiết để Tập đoàn tiếp tục phát huy vai trò dẫn dắt trong giai đoạn tới.
ĐBQH Cầm Thị Mẫn
PV: Thưa bà, với vai trò là tập đoàn kinh tế nhà nước chủ lực, bà đánh giá đâu là đóng góp mang tính trụ cột của Petrovietnam đối với tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô hiện nay?
ĐBQH Cầm Thị Mẫn: Theo tôi, Petrovietnam giữ vai trò trụ cột trên ba phương diện quan trọng đối với tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ nhất, Tập đoàn là nguồn đóng góp ngân sách lớn và ổn định, luôn nằm trong nhóm doanh nghiệp nộp ngân sách cao nhất cả nước. Kể cả trong giai đoạn thị trường dầu khí biến động mạnh, Petrovietnam vẫn duy trì dòng thu cho ngân sách Trung ương và địa phương, góp phần quan trọng vào cân đối vĩ mô.
Thứ hai, Petrovietnam đảm nhiệm vai trò then chốt trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Từ thăm dò - khai thác dầu khí, khí thiên nhiên, đến sản xuất điện, đạm, xăng dầu... Tập đoàn cung ứng các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Những lĩnh vực này có tác động lan tỏa lớn, tạo nền tảng ổn định cho sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa và chuyển dịch năng lượng.
Thứ ba, Petrovietnam dẫn dắt nhiều chuỗi giá trị công nghiệp quan trọng, thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ kỹ thuật dầu khí và các ngành liên quan. Tập đoàn cũng là lực lượng chủ lực đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, các dự án trọng điểm quốc gia, từ điện khí, lọc hóa dầu đến năng lượng tái tạo và sắp tới là điện hạt nhân, qua đó tạo động lực tăng trưởng dài hạn.
Có thể nói, với quy mô, năng lực và kinh nghiệm của mình, Petrovietnam không chỉ đóng góp về kinh tế - ngân sách mà còn giữ vai trò ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh năng lượng và hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp nền tảng của đất nước.
PV: Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng và áp lực bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, Petrovietnam đang thể hiện vai trò dẫn dắt thị trường như thế nào, thưa bà?
ĐBQH Cầm Thị Mẫn: Trong bối cảnh Việt Nam đứng trước yêu cầu chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ, Petrovietnam đang thể hiện rất rõ vai trò dẫn dắt thị trường, góp phần hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050. Cụ thể như:
Petrovietnam giữ vai trò trụ cột trong bảo đảm an ninh năng lượng: Tập đoàn duy trì sản lượng khai thác dầu khí ổn định, tối ưu hóa các mỏ hiện hữu và mở rộng tìm kiếm - thăm dò, qua đó bảo đảm nguồn cung đầu vào cho điện, phân bón, lọc hóa dầu và nhiều ngành sản xuất khác. Trong bối cảnh giá năng lượng thế giới biến động, sự chủ động về nguồn cung trong nước của Petrovietnam góp phần giảm phụ thuộc nhập khẩu và ổn định thị trường.
Petrovietnam đang dẫn dắt quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh và bền vững: Tập đoàn đã chủ động nghiên cứu, đầu tư vào các lĩnh vực LNG, điện khí, điện gió ngoài khơi, hydrogen, điện hạt nhân cũng như công nghệ thu giữ - lưu trữ carbon (CCS/CCUS). Đây đều là những nền tảng quan trọng để Việt Nam thực hiện cam kết Net Zero. Đặc biệt, các dự án LNG, điện hạt nhân và khí - điện mới của Petrovietnam đang tạo lực kéo lớn đối với thị trường và hệ sinh thái năng lượng sạch.
Bên cạnh đó, Petrovietnam dẫn dắt thị trường thông qua năng lực công nghệ và hệ sinh thái công nghiệp: Với các đơn vị thành viên mạnh về kỹ thuật, cơ khí, dịch vụ dầu khí, Tập đoàn không chỉ đầu tư mà còn chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hình thành các chuỗi giá trị mới trong lĩnh vực dầu khí - năng lượng. Điều này tạo ra sức lan tỏa lớn cho doanh nghiệp trong nước và thu hút vốn đầu tư quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay, Petrovietnam không chỉ hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm nguồn năng lượng truyền thống mà còn đang đi đầu trong định hình cấu trúc năng lượng mới của Việt Nam - một vai trò mang tính chiến lược đối với tăng trưởng dài hạn và an ninh năng lượng quốc gia.
Dự án Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn đã tạo ra những tác động mang tính nền tảng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa (Ảnh: Dự án Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn)
PV: Tại Thanh Hóa, bà đánh giá thế nào về những tác động nổi bật của Petrovietnam đối với thu ngân sách, việc làm và sự phát triển công nghiệp - đô thị của tỉnh?
ĐBQH Cầm Thị Mẫn: Theo tôi, sự hiện diện của Petrovietnam tại Thanh Hóa, đặc biệt là thông qua dự án Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn, đã tạo ra những tác động mang tính nền tảng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trước hết, dự án này đã trở thành một trong những nguồn thu ngân sách quan trọng nhất của địa phương, có thời điểm đóng góp tỷ trọng rất lớn trong tổng thu toàn tỉnh, qua đó giúp Thanh Hóa duy trì mức tăng trưởng GRDP cao và ổn định. Cùng với đó, hàng nghìn việc làm trực tiếp và hàng chục nghìn việc làm gián tiếp được tạo ra, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ; đồng thời hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp dịch vụ, hậu cần, cơ khí, vận tải... quanh khu kinh tế Nghi Sơn.
Ở góc độ dài hạn, dự án còn đóng vai trò “hạt nhân” trong quá trình công nghiệp hóa của Thanh Hóa, giúp mở ra một trung tâm công nghiệp - năng lượng mới, kéo theo đầu tư hạ tầng cảng biển, giao thông, đô thị và logistics. Tuy vậy, tôi cho rằng sự phụ thuộc vào một dự án có quy mô lớn cũng đồng thời đặt ra những yêu cầu về quản trị rủi ro tài chính, vận hành và môi trường; đòi hỏi tỉnh, các cơ quan liên quan và Petrovietnam tiếp tục có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình triển khai và tổ chức thực hiện để đảm bảo tính ổn định, minh bạch, an toàn trong dài hạn.
Nhìn tổng thể, Petrovietnam không chỉ mang lại nguồn thu và việc làm, mà quan trọng hơn là góp phần thay đổi cấu trúc kinh tế, nâng tầm năng lực công nghiệp và tạo động lực phát triển đô thị - hạ tầng của Thanh Hóa, góp phần đưa tỉnh từng bước trở thành cực tăng trưởng quan trọng của Bắc Trung Bộ và cả nước.
PV: Nhìn trên bình diện vùng Bắc Trung Bộ - miền Trung, các dự án khí - điện - lọc hóa dầu của Petrovietnam đã tạo động lực liên kết vùng ra sao và còn dư địa nào để khai thác hiệu quả hơn, thưa bà?
ĐBQH Cầm Thị Mẫn: Theo tôi, các dự án khí - điện - lọc hóa dầu của Petrovietnam trong vùng Bắc Trung Bộ - miền Trung đã tạo ra những động lực liên kết vùng rất rõ nét, không chỉ về kinh tế mà còn về hạ tầng và cấu trúc phát triển dài hạn.
Thứ nhất, các dự án quy mô lớn của Petrovietnam đang hình thành những cực công nghiệp mới và tạo trục kết nối Bắc - Trung - Nam. Hệ thống khai thác - vận chuyển khí, các trung tâm điện khí, cùng với tổ hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn đã tạo nên dòng chảy năng lượng liên tục, cung ứng cho nhiều tỉnh từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi, Gia Lai. Điều này giúp các địa phương gắn kết với nhau thông qua nhu cầu hạ tầng, lao động, dịch vụ logistics và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, Petrovietnam thúc đẩy liên kết vùng thông qua phát triển chuỗi giá trị công nghiệp và dịch vụ kỹ thuật. Các dự án khí - điện - lọc hóa dầu có đặc thù công nghệ cao, đòi hỏi hệ sinh thái doanh nghiệp cơ khí, chế tạo, vận tải biển, cảng biển và dịch vụ hậu cần. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp trong vùng, từ Nghệ An, Quảng Trị... đến Quảng Ngãi có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng, tạo sự lan tỏa kinh tế vượt ra ngoài phạm vi một tỉnh.
Thứ ba, các dự án của Petrovietnam là hạt nhân tạo động lực nâng cấp hạ tầng liên vùng. Sự phát triển của các khu kinh tế như Nghi Sơn, Vũng Áng, Dung Quất gắn liền với việc mở rộng cảng nước sâu, đường ven biển, tuyến logistics và hệ thống truyền tải điện. Đây là những cấu phần nền tảng giúp Bắc Trung Bộ - miền Trung tăng sức hấp dẫn đầu tư và cải thiện tính kết nối vùng.
Về dư địa phát triển, tôi cho rằng còn ba hướng rất lớn, cụ thể: Tăng liên kết giữa các khu kinh tế ven biển để hình thành “hành lang năng lượng - công nghiệp” từ Thanh Hóa đến Quảng Ngãi, trong đó Petrovietnam giữ vai trò cung cấp năng lượng, hạ tầng khí - điện và kéo theo đầu tư phụ trợ; Tận dụng tiềm năng điện khí LNG, điện gió ngoài khơi và hydrogen xanh để xây dựng chuỗi giá trị năng lượng mới, kết nối không chỉ trong vùng mà còn liên kết với Tây Nguyên - nơi có tiềm năng lưu trữ, truyền tải và sử dụng năng lượng; Phát triển logistics và cảng biển liên vùng trải dài theo mạn biển miền Trung, đặc biệt kết nối Nghi Sơn - Vũng Áng - Chân Mây - Dung Quất, để tối ưu chuỗi cung ứng dầu khí - hóa dầu - hàng rời - container...
Tóm lại, Petrovietnam không chỉ tạo động lực tăng trưởng cho từng địa phương mà còn đang góp phần định hình cấu trúc liên kết vùng Bắc Trung Bộ - miền Trung. Nếu khai thác tốt những dư địa còn lại, vùng này có thể trở thành một cực động lực mới về năng lượng, công nghiệp nặng và logistics của cả nước.
PV: Với góc nhìn là đại biểu Quốc hội, theo bà cần có những cơ chế, chính sách gì để các doanh nghiệp nhà nước như Petrovietnam tiếp tục phát huy vai trò chủ lực, tiên phong, đồng thời thích ứng với xu thế chuyển dịch năng lượng và phát triển xanh?
ĐBQH Cầm Thị Mẫn: Để các doanh nghiệp nhà nước như Petrovietnam tiếp tục phát huy vai trò chủ lực và tiên phong trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng và phát triển xanh, theo tôi, điều quan trọng nhất là phải xây dựng một khuôn khổ chính sách thật sự đồng bộ, ổn định và phù hợp với đặc thù của các dự án năng lượng quy mô lớn.
Trước hết, cần hoàn thiện hệ thống quy hoạch năng lượng quốc gia theo hướng nhất quán, minh bạch và gắn kết giữa phát triển nguồn - lưới - hạ tầng khí để Petrovietnam có thể lập kế hoạch đầu tư dài hạn, đặc biệt là các dự án LNG, điện khí và chuỗi khí - điện - kho cảng. Cùng với đó, cơ chế giá và hợp đồng mua bán điện (PPA) phải được thiết kế đủ linh hoạt và chia sẻ rủi ro, bởi chỉ khi các dự án LNG, hydrogen hay CCS được bảo đảm tính “bankable” thì doanh nghiệp mới huy động được vốn quốc tế và triển khai đúng tiến độ.
Song song với đó, Việt Nam cũng cần phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái tài chính xanh: từ trái phiếu xanh, quỹ đầu tư công - tư đến cơ chế bảo lãnh tín dụng và tận dụng nguồn lực quốc tế như JETP. Đây là chìa khóa để giảm chi phí vốn và giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào các công nghệ sạch còn chi phí cao. Một yếu tố then chốt khác là phải sớm ban hành hành lang pháp lý cho hydrogen và CCS, bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, ưu đãi thuế và cơ chế thí điểm để doanh nghiệp có thể nghiên cứu, thương mại hóa mà không vướng rủi ro pháp lý.
Cuối cùng, để doanh nghiệp nhà nước thực sự chủ động và linh hoạt, chính sách cần mở rộng quyền tự chủ trong quyết định đầu tư gắn với trách nhiệm giải trình, tiêu chuẩn quản trị hiện đại và yêu cầu minh bạch. Khi có một môi trường pháp lý ổn định, cơ chế tài chính phù hợp và không gian đổi mới rộng mở, Petrovietnam hoàn toàn có thể giữ vững vai trò dẫn dắt thị trường chuyển dịch năng lượng, đồng thời chuyển đổi thành tập đoàn năng lượng xanh - công nghệ cao, đóng góp quan trọng cho mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
Petrovietnam hoàn toàn có khả năng đi đầu trong phát triển năng lượng sạch, đặc biệt là LNG, hydrogen, điện gió ngoài khơi và các công nghệ giảm phát thải (Ảnh: Kho cảng LNG Thị Vải của PV GAS)
PV: Trong giai đoạn tới, bà kỳ vọng Petrovietnam sẽ đóng vai trò gì trong phát triển năng lượng sạch, LNG, hydrogen và thực hiện mục tiêu Net Zero vào năm 2050?
ĐBQH Cầm Thị Mẫn: Trong giai đoạn tới, tôi kỳ vọng Petrovietnam sẽ chuyển mình mạnh mẽ trở thành tập đoàn năng lượng quốc gia hiện đại, dẫn dắt tiến trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam. Với kinh nghiệm hàng chục năm quản lý chuỗi giá trị năng lượng, hệ thống hạ tầng sẵn có và tiềm lực khoa học - công nghệ, Petrovietnam hoàn toàn có khả năng đi đầu trong phát triển năng lượng sạch, đặc biệt là LNG, hydrogen, điện gió ngoài khơi và các công nghệ giảm phát thải. Trước mắt, Petrovietnam cần đẩy nhanh đầu tư hạ tầng LNG và các nhà máy điện khí, bởi đây là nguồn điện chuyển tiếp quan trọng, giúp bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh nguồn thủy điện đã tới hạn và năng lượng tái tạo còn thiếu tính ổn định.
Về dài hạn, Tập đoàn phải chủ động hơn trong nghiên cứu, thử nghiệm và từng bước thương mại hóa các công nghệ hydrogen, amoniac xanh, thu giữ - lưu trữ - tái sử dụng carbon (CCUS/CCS), gắn với chiến lược phát triển cụm công nghiệp - năng lượng ven biển.
Nếu có khung pháp lý phù hợp và cơ chế khuyến khích đầu tư đủ mạnh, Petrovietnam sẽ trở thành lực lượng nòng cốt giúp Việt Nam thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 một cách thực chất: vừa giảm phát thải, vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa tạo ra các ngành công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao. Đây không chỉ là kỳ vọng mà còn là đòi hỏi khách quan từ sự phát triển của nền kinh tế và những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đặt ra.
PV: Xin trân trọng cảm ơn bà!
Mạnh Tưởng (thực hiện)
Nguồn PetroTimes : https://petrotimes.vn/petrovietnam-dang-dinh-hinh-cau-truc-nang-luong-moi-cua-viet-nam-736015.html