PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Chiến lược 'mở đường' phát triển công nghiệp văn hóa

PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Chiến lược 'mở đường' phát triển công nghiệp văn hóa
một giờ trướcBài gốc
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt. Một trong những mục tiêu được Chiến lược nêu rõ, đó là đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm và đóng góp 7% GDP của đất nước; phấn đấu tốc độ tăng trưởng về giá trị xuất khẩu của các ngành công nghiệp văn hóa bình quân đạt 7%/năm.
Nhân dịp này, Báo Công Thương có cuộc trao đổi với PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội, một chuyên gia gắn bó và tâm huyết với ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chiến lược).
Ngành công nghiệp văn hóa đang có nhiều cơ hội phát triển bứt phá. Ảnh: Nam Nguyễn.
Một dấu mốc rất đặc biệt đối với công nghiệp văn hóa
- Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 được xem là dấu mốc quan trọng. Theo ông, ý nghĩa lớn nhất của Chiến lược đối với sự phát triển văn hóa, kinh tế của Việt Nam hiện nay là gì?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là một dấu mốc rất đặc biệt, không chỉ vì đây là lần đầu tiên chúng ta có một chiến lược tầm quốc gia, toàn diện và dài hạn dành riêng cho công nghiệp văn hóa. Đồng thời, quan trọng hơn, nó thể hiện tư duy phát triển mới của đất nước trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng.
Nếu trước đây chúng ta quen nói văn hóa là “nền tảng tinh thần” hay “mục tiêu, động lực phát triển”, thì nay Chiến lược đã cụ thể hóa điều đó bằng các mục tiêu tăng trưởng, tỷ trọng GDP, xuất khẩu, thị trường, nhân lực; nghĩa là đã đặt văn hóa vào đúng vị trí của một ngành kinh tế quan trọng, một động lực tăng trưởng của kỷ nguyên mới.
Ý nghĩa lớn nhất của Chiến lược, theo tôi, nằm ở việc nó tạo ra một hệ quy chiếu phát triển hoàn toàn mới, đó là xem văn hóa như một ngành kinh tế dựa trên sáng tạo, tài năng, bản sắc và công nghệ, nhưng đồng thời vẫn giữ được sứ mệnh bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách và sức mạnh nội sinh của dân tộc. Cùng đó, giúp tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị. Bởi lẽ, để công nghiệp văn hóa phát triển đòi hỏi sự vào cuộc của các bộ ngành từ giáo dục, khoa học công nghệ, thông tin truyền thông đến thương mại, đầu tư, quy hoạch đô thị, du lịch, ngoại giao…
Bên cạnh đó, Chiến lược lần này tạo ra kỳ vọng rất lớn về khả năng đưa Việt Nam vươn lên trong bản đồ công nghiệp văn hóa khu vực và thế giới. Trong một thế giới mà sức cạnh tranh nằm ở trải nghiệm, cảm xúc, sáng tạo và giá trị nội dung, Việt Nam sở hữu kho tàng di sản, lịch sử, văn hóa dân gian, nghệ thuật đương đại, các làn sóng sáng tạo trẻ… hoàn toàn có thể chuyển hóa thành sản phẩm văn hóa có giá trị cao.
Đặc biệt, ý nghĩa then chốt nhất của Chiến lược đặt người dân vào trung tâm cả với tư cách người sáng tạo và người hưởng thụ. Khi văn hóa trở thành một lĩnh vực giúp nâng cao chất lượng sống, tạo việc làm sáng tạo, khơi dậy lòng tự hào và niềm tin vào bản sắc của chính mình, chúng ta đang kiến tạo một nền phát triển bền vững, bao trùm và có chiều sâu.
- Chiến lược xác định 10 ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt từ điện ảnh, thiết kế sáng tạo đến du lịch văn hóa. Dưới góc nhìn chuyên gia, thưa ông những ngành này đang đứng trước cơ hội và thách thức phát triển như thế nào?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: 10 ngành công nghiệp văn hóa được Chiến lược xác định, từ điện ảnh, thiết kế sáng tạo, quảng cáo, phần mềm và trò chơi giải trí cho đến thủ công mỹ nghệ, du lịch văn hóa thực chất là những lĩnh vực đang đứng trước cơ hội phát triển chưa từng có. Chúng hội tụ ba yếu tố quan trọng của thời đại, đó là: Bản sắc, sáng tạo, công nghệ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, khi thị trường nội dung, trải nghiệm và sản phẩm văn hóa đang dịch chuyển mạnh mẽ sang nền kinh tế số và chuỗi giá trị toàn cầu, đây vừa là thời cơ vàng, vừa là phép thử lớn đối với năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Tôi cho rằng cơ hội đầu tiên đến từ chính sự thay đổi về nhận thức. Khi Chính phủ ban hành Chiến lược với những mục tiêu rất rõ ràng, chúng ta có cơ sở để huy động nguồn lực xã hội, khơi thông sáng tạo của giới trẻ, kích hoạt tinh thần dấn thân của doanh nghiệp. Ngoài ra, Việt Nam có lợi thế đặc biệt về di sản, văn hóa dân gian, lịch sử lâu đời, nhạc cụ truyền thống, ẩm thực, mỹ thuật, kiến trúc, cùng một cộng đồng sáng tạo trẻ đang lớn mạnh. Trong thời đại mà tính độc đáo và bản sắc trở thành yếu tố tạo lợi thế cạnh tranh, thì kho tàng văn hóa Việt Nam chính là “mỏ vàng”.
Cơ hội thứ hai đến từ công nghệ. Thực tế cho thấy, các sản phẩm văn hóa hiện nay không chỉ là nghệ thuật thuần túy, mà là sự kết hợp của công nghệ sản xuất nội dung, kỹ xảo, dữ liệu người dùng, nền tảng số và mô hình kinh doanh sáng tạo. Điều này mở ra một cách tiếp cận hiện đại, chúng ta có thể vượt qua hạn chế về hạ tầng truyền thống bằng lợi thế số hóa, sáng tạo, linh hoạt... vốn là những yếu tố mà Việt Nam đang làm rất tốt.
Tuy nhiên, thách thức cũng rất lớn, trong đó, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Các sản phẩm giải trí, phim ảnh, âm nhạc, thiết kế từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ… đã thâm nhập mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Khi “độ mở” ngày càng lớn, chỉ những sản phẩm thực sự chất lượng, có bản sắc, được đầu tư bài bản và tiếp cận thị trường quốc tế mới đủ sức trụ lại.
Một thách thức khác là vấn đề thể chế và môi trường kinh doanh. Cho đến nay, không ít doanh nghiệp sáng tạo vẫn gặp rào cản về thủ tục, cơ chế đầu tư, quy định bản quyền, chính sách thuế, hay hạ tầng văn hóa còn thiếu và yếu. Nhiều ngành như thiết kế sáng tạo, thủ công mỹ nghệ hay du lịch văn hóa vẫn chưa có chuỗi giá trị đủ mạnh để cạnh tranh quốc tế.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội.
Thúc đẩy hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi
- Một trong những mục tiêu của Chiến lược là đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp văn hóa đạt bình quân 10%/năm, đóng góp 7% GDP vào năm 2030. Quan điểm của ông ra sao về thực trạng hiện nay có đáp ứng được kỳ vọng này không và đâu là điểm nghẽn lớn nhất cản trở sự bứt phá?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng, mục tiêu tăng trưởng bình quân 10%/năm và đóng góp 7% GDP vào năm 2030 là mục tiêu cao nhưng hoàn toàn cần thiết để thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển đúng với tiềm năng của đất nước. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu ấy, chúng ta phải nhìn thẳng vào thực trạng hiện nay, đó là công nghiệp văn hóa Việt Nam đã có bước tiến đáng kể nhưng vẫn chưa thực sự bứt phá tương xứng với kỳ vọng.
Theo tôi, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở thể chế và hạ tầng hỗ trợ sáng tạo. Nhiều ngành công nghiệp văn hóa vẫn chưa có hành lang pháp lý đầy đủ để phát triển như một ngành kinh tế đặc thù. Quy trình cấp phép, kiểm duyệt, quản lý bản quyền, chính sách thuế, cơ chế đầu tư… đôi khi còn manh mún, chưa đồng bộ, khiến doanh nghiệp mất nhiều chi phí cơ hội.
Điểm nghẽn thứ hai là nhân lực sáng tạo. Công nghiệp văn hóa phụ thuộc vào tài năng, đổi mới sáng tạo và năng lực quản trị. Nhưng nguồn nhân lực văn hóa của chúng ta vừa thiếu, vừa chưa được đào tạo theo chuẩn quốc tế. Các trường nghệ thuật, thiết kế, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh đang nỗ lực đổi mới, nhưng vẫn cần một chiến lược mạnh mẽ hơn về hợp tác quốc tế, đầu tư công nghệ, cập nhật xu hướng mới, cũng như cơ chế thu hút nhân tài sáng tạo về làm việc tại Việt Nam.
Thứ ba là vấn đề thị trường và khả năng cạnh tranh. Sản phẩm văn hóa nước ngoài tràn vào mạnh mẽ, nhưng sản phẩm Việt Nam chưa có nhiều thương hiệu thực sự đi ra thế giới. Một phần là do năng lực sáng tạo còn phân tán; phần khác là vì thiếu chiến lược bài bản về quảng bá quốc gia, thiếu các doanh nghiệp đầu tàu có khả năng dẫn dắt ngành.
Và cuối cùng, tôi cho rằng còn một điểm nghẽn mang tính nền tảng, đó là chúng ta vẫn chưa thật sự xem công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế mũi nhọn. Vì thế, Chiến lược đã mở đường, nhưng để chuyển hóa thành hành động, cần có sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị, cần đưa công nghiệp văn hóa vào quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, vào quy hoạch đô thị sáng tạo, vào chiến lược chuyển đổi số quốc gia, vào chương trình phát triển nhân lực.
- Vậy theo ôngđâu là giải pháp mang tính “đột phá” để ngành công nghiệp văn hóa có thể tạo ra bước chuyển thực sự?
PGS.TS Bùi Hoài Sơn: Trong rất nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp mà Chiến lược đề ra, từ hoàn thiện thể chế, phát triển nhân lực, nâng cấp hạ tầng, thu hút đầu tư cho đến thúc đẩy chuyển đổi số và mở rộng thị trường quốc tế, tôi cho rằng giải pháp mang tính “đột phá” nhất chính là hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi để sáng tạo nở rộ và doanh nghiệp văn hóa phát triển mạnh mẽ.
Lý do rất rõ ràng, công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế dựa trên tài năng, bản sắc, công nghệ và mô hình kinh doanh sáng tạo. Những yếu tố ấy chỉ có thể phát huy hết tiềm năng khi được đặt trong một hệ sinh thái cởi mở, thông minh, ít rào cản và minh bạch. Nếu thể chế chưa thông thoáng thì dù có nhân lực tốt, công nghệ mạnh, doanh nghiệp sáng tạo cũng rất khó bứt phá.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Ảnh: Nam Nguyễn.
Tuy nhiên, đột phá thể chế không chỉ dừng ở sửa luật hay đơn giản hóa thủ tục, mà còn nằm ở việc định vị lại vai trò của Nhà nước từ “quản lý” sang “tạo lập môi trường”, “điều phối”, “dẫn dắt”, “bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” và “khuyến khích đổi mới sáng tạo”.
Cùng với thể chế, tôi cho rằng một đột phá rất quan trọng nữa chính là phát triển hạ tầng sáng tạo và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo văn hóa. Không có trường quay hiện đại thì điện ảnh khó bứt phá; không có các trung tâm thiết kế, trung tâm sáng tạo thì ngành thiết kế khó vươn lên; không có nhà hát, trung tâm biểu diễn đạt chuẩn quốc tế thì khó thu hút các chương trình nghệ thuật đỉnh cao…
Đột phá thứ ba, không thể không nhắc đến, là chuyển đổi số và công nghệ, bởi công nghiệp văn hóa hiện nay được dẫn dắt mạnh mẽ bởi công nghệ sản xuất nội dung, nền tảng kỹ thuật số và dữ liệu. Nếu chúng ta đi nhanh trong chuyển đổi số, ứng dụng AI, big data, công nghệ mô phỏng, tự động hóa sản xuất nội dung… thì hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách với các quốc gia đi trước.
Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng, dù công nghệ quan trọng đến đâu thì nhân lực vẫn là trung tâm của mọi giải pháp. Chính con người, đặc biệt là lực lượng sáng tạo trẻ mới là người tạo ra sản phẩm văn hóa. Vì vậy, phát triển nhân lực, xây dựng môi trường nuôi dưỡng tài năng, liên kết nhà trường, doanh nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo… là giải pháp mang tính nền tảng để tạo ra đột phá bền vững.
Xin cảm ơn ông!
Chiến lược xác định 10 ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt được ưu tiên phát triển gồm: Điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; nghệ thuật biểu diễn; phần mềm và các trò chơi giải trí; quảng cáo; thủ công mỹ nghệ; du lịch văn hóa; thiết kế sáng tạo; truyền hình và phát thanh; xuất bản. Đây là những ngành tạo ra các sản phẩm kết hợp yếu tố văn hóa, sáng tạo, công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ văn hóa của người dân và phù hợp với mục tiêu hội nhập quốc tế, phát triển bền vững đất nước.
Bảo Thoa (thực hiện)
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/pgs-ts-bui-hoai-son-chien-luoc-mo-duong-phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-431373.html