PGS.TS Nguyễn Thế Chinh: Cơ hội vàng để thúc đẩy kinh tế môi trường trong kỷ nguyên mới

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh: Cơ hội vàng để thúc đẩy kinh tế môi trường trong kỷ nguyên mới
3 giờ trướcBài gốc
Mới đây, (ngày 11/9), tại cuộc họp do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì, các cơ quan chức năng đã báo cáo về kế hoạch hành động quốc gia nhằm khắc phục ô nhiễm lưu vực sông và môi trường không khí, với trọng tâm là tình hình xử lý ô nhiễm tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, được nhấn mạnh là vấn đề cấp bách, kéo dài nhiều năm, đòi hỏi các giải pháp đồng bộ và căn cơ để hướng tới mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định: “Khi môi trường trong lành, tư duy phát triển sẽ thay đổi, đưa môi trường trở thành một trụ cột ngang hàng với kinh tế và xã hội.” Cuộc họp ghi nhận những tiến bộ cụ thể, như việc Hà Nội lắp đặt thêm 32 cảm biến không khí tính đến cuối tháng 8/2025, triển khai thí điểm phục hồi các dòng sông, và xây dựng kế hoạch hành động giai đoạn 2026-2030 nhằm tích hợp yếu tố môi trường vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách Tài Nguyên và Môi trường ( Nay thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường)- Hiện là Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn Phóng viên Tạp chí Kinh tế Môi trường, PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam nhấn mạnh đây là “cơ hội vàng” để thúc đẩy các giải pháp bền vững tại Việt Nam. Ông cho rằng, với công nghệ hiện đại sẵn sàng và hành lang pháp lý từ Luật Bảo vệ Môi trường 2020, Việt Nam có thể tận dụng áp lực xã hội và nhận thức ngày càng cao của người dân để xây dựng một nền kinh tế môi trường hiệu quả, đồng thời bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Thưa PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, ông có nhấn mạnh rằng công nghệ hiện tại đã sẵn sàng để khắc phục ô nhiễm lưu vực sông và không khí tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Theo ông, những công nghệ cụ thể nào được ưu tiên áp dụng tại Việt Nam, và làm thế nào để vượt qua rào cản triển khai ở quy mô lớn, đặc biệt với nguồn lực hạn chế của các địa phương?
Theo tôi được biết, hiện nay trong vấn đề xử lý nước thải, khi làm việc với một số quốc gia khác như Thụy Điển, Nhật Bản, đặc biệt là Hà Lan, họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải với các quy mô khác nhau, tùy theo tiêu chuẩn và mức độ yêu cầu của chúng ta.
Chúng ta đều biết rằng, với quy mô nhỏ như hộ gia đình đã có các mức độ lọc phù hợp; còn ở quy mô lớn sẽ phụ thuộc vào yêu cầu, tiêu chí như thế nào thì sẽ được đáp ứng các chỉ tiêu theo công nghệ đó.
Trước đây, chúng ta tìm kiếm những công nghệ xử lý nước thải, khí thải rấ khó, nhưng hiện nay khi có phương án, dự án, quy hoạch thì chỉ cần đưa ra đấu thầu là sẽ có giải pháp đáp ứng được. Các tổ chức, đặc biệt là khi có sự khuyến khích đầu tư tư nhân, khu vực đầu tư tư nhân chắc sẵn sẽ luôn sẵn sàng tham gia. Theo tôi, tất cả chỉ cần tùy theo mục tiêu yêu cầu của đề bài bài toán đó.
Về công nghệ, có thể lấy ví dụ ứng dụng tại Việt Nam, các công nghệ hiện đại có thể tham khảo như hệ thống lọc màng tiên tiến như Cembrane từ Thụy Điển, công nghệ xử lý nước thải kỵ khí từ Nhật Bản, và hệ thống thoát nước bền vững từ Hà Lan...
Tuy nhiên, tôi cho rằng để vượt qua rào cản triển khai quy mô lớn với nguồn lực hạn chế, cần ưu tiên hợp tác quốc tế qua đấu thầu PPP, đồng thời đào tạo nhân lực địa phương để giảm chi phí vận hành, như trong các dự án thí điểm tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Theo báo cáo tại cuộc họp ngày 11/9/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã lắp đặt thêm 32 cảm biến không khí tại Hà Nội đến cuối tháng 8/2025, dự kiến thêm khoảng 60-70 điểm trước ngày 15/9/2025, kết hợp với trạm cố định để tạo mạng lưới quan trắc bụi mịn, phục vụ cảnh báo và nghiên cứu – đây là ví dụ về công nghệ sẵn sàng nhưng cần phối hợp liên vùng để tối ưu hóa nguồn lực.
Luật Bảo vệ Môi trường 2020 được ông đánh giá là một bước tiến về hành lang pháp lý, sau gần 4 năm triển khai ông có thể nhấn mạnh những điểm mạnh nổi bật của luật này trong việc hỗ trợ các giải pháp bền vững hay không?
Luật Bảo vệ Môi trường 2020 rõ ràng là một bước tiến vượt bậc so với Luật Bảo vệ Môi trường 2014. Điển hình, về cơ chế quản lý, hiện nay chúng ta có sự điều chỉnh nên luật mới đã phân cấp đến cấp xã, tạo điều kiện để các địa phương chủ động hơn trong việc giải quyết các vấn đề môi trường tại địa phương.
Với nhu cầu thực tiễn và sự tiến bộ trong Luật Bảo vệ Môi trường 2020, đã có những quy định mang tính chất phù hợp với xu thế. Ví dụ như về công cụ kinh tế, khi nội dung kinh tế tuần hoàn hiện nay đã trở thành một nền tảng cho thực thi, với căn cứ pháp luật rõ ràng.
Hay như vấn đề phát triển thị trường carbon, trong luật cũng đã đề cập; vấn đề về thuế bảo vệ môi trường, hiện nay không chỉ là thu gián tiếp mà còn thu trực tiếp vào nguồn gây ô nhiễm, giúp khuyến khích doanh nghiệp giảm phát thải.
Cụ thể, đến năm 2025, Luật đã hỗ trợ vận hành thí điểm thị trường carbon từ tháng 6/2025 đến 2028, thúc đẩy kinh tế xanh và giảm khí nhà kính, đồng thời tích hợp ba trụ cột “kinh tế - xã hội - môi trường” trong đánh giá dự án.
Tại cuộc họp ngày 11/9/2025, Phó Thủ tướng nhấn mạnh kế hoạch hành động 2026-2030 sẽ dựa trên luật này để khắc phục hậu quả ô nhiễm, hướng tới mô hình kinh tế xanh và tuần hoàn, với môi trường là trụ cột ngang hàng kinh tế - xã hội.
Tất nhiên hiện nay vẫn chưa thực thi đầy đủ là vì từ luật đến quá trình thực hiện, thanh tra, kiểm tra... phải có sự đồng bộ với nhau và cần thời gian. Có những vấn đề có thể thực thi được ngay, nhưng cũng có những vấn đề phải có độ trễ vì việc thực thi còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: Vấn đề về nhận thức ở trình độ ở mức nào; việc triển khai có đủ nguồn lực hay không và sự vận hành của xu thế chung.
Nhưng trên thực tế, cũng có những thứ sẽ đi trước luật. Ví dụ như hiện nay một số doanh nghiệp họ sẵn sàng đi trước trong câu chuyện giảm thiểu carbon. Bởi vì như vậy họ có thể nhanh chóng vào được thị trường khó tính, phải đảm bảo chất lượng môi trường nếu không hàng hóa sẽ bị trả lại.
Thưa PGS.TS, với những nỗ lực hiện nay trong việc xử lý ô nhiễm không khí và nước tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, ông cho rằng làm sao để nâng cao hiệu quả quản lý và xử lý ô nhiễm tại hai thành phố này?
Mới đây, tại cuộc họp ngày 11/9/2025, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chỉ đạo các cơ quan chức năng đánh giá tiến độ triển khai các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường theo chỉ đạo của Thủ tướng, với trọng tâm là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Nước sông Tô Lịch đã có sự cải thiện rõ rệt so với thời gian trước - Ảnh: Đức Bách.
Kết quả bước đầu cho thấy những tiến triển đáng ghi nhận. Tại Hà Nội, chất lượng nước sông Tô Lịch đã được cải thiện nhờ việc dẫn nước bổ cập từ Hồ Tây và hoàn thành đập dâng trước ngày 2/9/2025, cùng với việc thu gom toàn bộ 245 cửa xả ra sông.
Về ô nhiễm không khí, Hà Nội đã được lắp đặt thêm 32 trạm cảm biến đến cuối tháng 8/2025 và dự kiến Bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ lắp đặt thêm 60–70 điểm trước ngày 15/. Hệ thống này, kết hợp với các trạm cố định để tạo mạng lưới quan trắc bụi mịn, phục vụ cảnh báo và nghiên cứu.
TP. Hồ Chí Minh cũng đang đẩy mạnh các giải pháp như phát triển giao thông xanh, chuyển đổi xe buýt điện từ năm 2025 và giám sát 89 nguồn thải lớn.
Cũng đã có những kế hoạch hành động lấy ý kiến và chuẩn bị ban hành của quản lý Nhà nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) từ Thủ tướng, Chính phủ, như Kế hoạch hành động quốc gia khắc phục ô nhiễm không khí 2025-2030, với mục tiêu giảm 20% AQI xấu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Để lấp khoảng trống, hiện cũng có nhiều ý kiến cho rằng cần bổ sung quy định về phối hợp liên vùng, như thành lập Ban chỉ đạo liên tỉnh mà Hà Nội kiến nghị, và tích hợp các tiêu chuẩn quốc tế như của WHO vào quy chuẩn khí thải.
Ông cũng nhấn mạnh rằng hiện nay chính là "cơ hội vàng", vậy thì theo ông, yếu tố xã hội cụ thể nào đã góp phần tạo nên cơ hội này và làm thế nào để duy trì điều đó trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh?
Theo tôi thì có các yếu tố như hiện nay người dân đã có sự thay đổi, nhận thức rất cao; việc truyền thông trên các kênh thông tin đại chúng và vấn đề công nghệ cùng với điều kiện cơ chế hiện nay đã mở hơn là những lý do cốt lõi.
Đảng và Nhà nước hiện đã đề ra bốn định hướng chiến lược rõ ràng để thúc đẩy xử lý ô nhiễm và phát triển kinh tế môi trường.
Thứ nhất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số, để nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát môi trường, như triển khai hệ thống quan trắc không khí tích hợp trí tuệ nhân tạo.
Thứ hai, rà soát và hoàn thiện hệ thống pháp luật, kịp thời sửa đổi các quy định còn bất cập, đảm bảo hành lang pháp lý minh bạch và thuận lợi cho thực thi.
Thứ ba, mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp cận các công nghệ tiên tiến và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia như Thụy Điển, Nhật Bản, và Hà Lan trong xử lý ô nhiễm.
Thứ tư, và cũng là yếu tố then chốt, là huy động nguồn lực tư nhân để bù đắp hạn chế về ngân sách Nhà nước.
Trước đây, khi chưa có các quy định pháp lý phù hợp, việc thu hút đầu tư tư nhân gặp nhiều rào cản. Hiện nay, với những điểm nghẽn đang được tháo gỡ, như cơ chế đối tác công tư (PPP) và ưu đãi thuế theo Luật Bảo vệ Môi trường 2020, khu vực tư nhân có thể tham gia mạnh mẽ hơn vào các dự án xử lý ô nhiễm không khí và nước, từ đó đảm bảo hiệu quả và bền vững.
Theo tôi, trong quản lý thị trường, vai trò tốt nhất của Nhà nước là đảm bảo công bằng, cạnh tranh minh bạch và lành mạnh, đồng thời kiểm tra, thanh tra, giám sát chặt chẽ để tránh "thất bại thị trường".
Nhà nước cần duy trì ổn định, không để biến động thị trường xảy ra, từ đó "thổi còi" kịp thời các đơn vị vi phạm quy định. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân tuân thủ đúng, làm tốt. Vai trò quản lý Nhà nước do đó là đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân, nhưng phải giữ vững quy tắc xã hội chung.
Vậy ở khía cạnh kinh tế môi trường thì sao, ông đánh giá như thế nào về tác động kinh tế khi thực hiện các giải pháp này?
Trong kinh tế môi trường, mọi đầu tư cần được đánh giá qua bài toán kinh tế, cân bằng giữa chi phí và lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường.
Lấy ví dụ như dự án phục hồi sông Tô Lịch tại Hà Nội, thuộc đề án cải tạo 4 sông nội đô phê duyệt năm 2025. Nếu có thể biến dòng sông ô nhiễm thành điểm du lịch cuối tuần với các dịch vụ như quán cà phê, du lịch sông... sẽ tạo giá trị hàng nghìn tỷ đồng từ du lịch và bất động sản thông qua mô hình PPP.
Phân tích kinh tế, thay vì chỉ tài chính, cần xem xét tổng lợi ích (kinh tế, xã hội, môi trường) trừ đi chi phí để đảm bảo có lãi, phù hợp với định hướng kinh tế xanh và tuần hoàn.
Việc coi trọng ba trụ cột “kinh tế - xã hội - môi trường” như Phó Thủ tướng nhấn mạnh, sẽ đảm bảo phát triển bền vững.
Ông cũng có nói về vai trò giám sát của Nhà nước trong công tác quản lý, thanh tra kiểm tra, quy hoạch... Ông có thể nêu ví dụ về các chính sách quy hoạch cụ thể mà Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh nên ưu tiên để hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân đầu tư hiệu quả vào xử lý ô nhiễm không khí và nước?
Tôi cho rằng Nhà nước cần ưu tiên các chính sách quy hoạch đồng bộ, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân đầu tư hiệu quả vào xử lý ô nhiễm.
Thực tế cũng đã có những doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này rồi.
Ảnh phối cảnh nhà máy đốt rác phát điện HĐND thành phố Hà Nội đã nhất trí phê duyệt chủ trương đầu tư ngày 27/6/2025.
Tại Hà Nội, Dự án Cải tạo môi trường và đốt rác phát điện (công suất 60MW, vốn đầu tư trên 7.500 tỷ đồng) là một ví dụ điển hình, kết hợp xử lý chất thải rắn và sản xuất năng lượng sạch. Hà Nội đã ban hành kế hoạch hành động, nhưng cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực thi, học hỏi từ các quốc gia khác.
Tại TP. Hồ Chí Minh, các dự án PPP chống ngập và xử lý nước thải giai đoạn 2020-2045, bao gồm di dời cơ sở gây ô nhiễm khỏi nội đô và giám sát 89 nguồn thải lớn, là trọng tâm.
Chúng ta không thể vội vàng vì Việt Nam mới triển khai được trong vài năm qua, còn các nước đi trước như Trung Quốc họ cũng phải cần tới 20 năm để đạt kết quả như hiện nay. Chúng ta cần một quá trình nghiên cứu kỹ khi đưa ra phương án, những chính sách này cần đảm bảo mục tiêu Nhà nước, sự đồng thuận của người dân và tính khả thi kinh tế.
Xin hỏi ông một câu cuối, ông có đề xuất gì để khu vực kinh tế tư nhân đầu tư hiệu quả vào xử lý ô nhiễm không khí và nước, đồng thời đảm bảo thu phí hợp lý?
Khu vực tư nhân cần được khuyến khích đầu tư thông qua Luật PPP, với các sửa đổi kịp thời để tháo gỡ vướng mắc nhưng phải đảm bảo tính hợp lý.
Nhà nước nên áp dụng cơ chế định giá dịch vụ dựa trên chi phí toàn diện, kết hợp ưu đãi thuế theo Luật Bảo vệ Môi trường 2020 để khu vực kinh tế tư nhân có thể đầu tư hiệu quả mà không gây gánh nặng cho người dân. Cơ chế này không chỉ thúc đẩy kinh tế xanh mà còn bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phù hợp với mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững.
Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS!
Bảo Loan
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/pgsts-nguyen-the-chinh-co-hoi-vang-de-thuc-day-kinh-te-moi-truong-101882.html