PV: Đề xuất đáng chú ý là thay đổi về thuế chuyển nhượng bất động sản, cụ thể là áp dụng 20% trên phần lãi đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ dư luận. Chắc hẳn, đây cũng là vấn đề mà các ông cũng quan tâm. Đang có rất nhiều ý kiến xung quanh đề xuất này, ông thì nghĩ thế nào?
TS Nguyễn Văn Đính: Về cơ bản, tôi cho rằng công cụ thuế để điều tiết thị trường là khá phổ biến ở rất nhiều nước phát triển. Họ sử dụng thuế để điều tiết, khuyến khích những hoạt động cần phát triển và hạn chế những hoạt động không khuyến khích. Thuế này thực ra cũng không phải là một loại thuế hoàn toàn mới lạ, nó đã từng tồn tại. Tuy nhiên, những nội hàm và cách thức triển khai của nó hiện chưa đủ cụ thể để chúng ta có thể thực sự sử dụng nó một cách hiệu quả để điều tiết thị trường, đặc biệt là các hoạt động đầu tư, trong đó có bất động sản.
Đối với việc dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) đề xuất áp dụng mức thuế 20% trên phần lãi, để hiểu rõ hơn, chúng ta cần nhìn lại lịch sử. Thực chất, quy định về việc thu thuế 20% khi xác định được lợi nhuận từ chuyển nhượng bất động sản – tức là khi chúng ta xác định được giá mua ban đầu và giá bán hiện tại để tính ra lợi nhuận – không phải là một quy định mới mẻ hay đột ngột. Quy định này đã từng được Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2008 đề cập.
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, trong giai đoạn đó, việc thực thi quy định này đã gặp phải quá nhiều khó khăn và vướng mắc trong thực tiễn. Chính vì những bất cập này mà đến năm 2015, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân. Sau sửa đổi, Luật chỉ còn quy định một phương thức duy nhất để tính thuế, đó là đánh thuế 2% trên tổng giá trị hợp đồng mua bán chuyển nhượng bất động sản. Phương thức 2% trên tổng giá trị hợp đồng đã được áp dụng trong khoảng 10 năm gần đây, từ năm 2015 cho đến thời điểm hiện tại. Trong suốt thời gian đó, về cơ bản, thị trường bất động sản và người dân đã dần quen thuộc và thích nghi với cách tính thuế này.
Chính vì thế về mặt nguyên tắc, đề xuất khôi phục lại cách tính thuế 20% trên lợi nhuận là hoàn toàn đúng đắn theo nguyên lý cơ bản của Luật Thuế thu nhập. Bởi lẽ, thuế thu nhập chỉ thực sự phát sinh khi cá nhân có lợi nhuận, có thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản. Đề nghị này cũng được đánh giá là phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành và đúng theo thông lệ quốc tế về cách đánh thuế thu nhập.
TS Nguyễn Văn Đính.
PV: Một những những yếu tố được nhắc đến nhiều là việc áp dụng chính sách thuế này nhằm mục đích kiểm soát tình trạng đầu cơ và minh bạch thị trường bất động sản. Ông có nghĩ như vậy không?
TS Nguyễn Văn Đính: Đúng vậy. Chúng ta đang chứng kiến một số giai đoạn thị trường có những đợt đột biến tăng giá bất động sản. Qua phân tích, người ta nhận thấy rằng một phần lớn sự tăng giá này có nguyên nhân từ các hoạt động đầu tư và đầu cơ. Những hoạt động này đã tác động và đẩy giá lên cao. Do đó, việc Nhà nước muốn sử dụng chính sách thuế này để ngăn chặn tình trạng đầu cơ, thổi giá là một việc không bất thường. Về mặt nguyên tắc, việc sử dụng thuế để bình ổn thị trường là hợp lý.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là làm thế nào để chính sách này thực sự ngăn chặn được tình trạng đầu cơ mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến những hoạt động bình thường của thị trường và của người dân. Đây là một khâu kỹ thuật đòi hỏi sự hết sức thận trọng. Sự thận trọng này là cực kỳ cần thiết bởi vì nếu chúng ta không cẩn trọng, hoặc không phân định rõ ràng các nhóm đối tượng khác nhau, có thể chúng ta sẽ đánh đồng cùng một lúc nhiều nhóm đối tượng vào trong cùng một luật thuế này.
PV:Ông có thể nói rõ hơn về việc phân định các nhóm đối tượng này không? Tại sao việc này lại quan trọng đến vậy?
TS Nguyễn Văn Đính: Trên thị trường giao dịch bất động sản, có nhiều loại giao dịch và nhiều nhóm đối tượng tham gia khác nhau, với những mục đích rất khác nhau. Thứ nhất là có những người dân bình thường mua bán bất động sản với nhu cầu hết sức cơ bản và bình thường. Đó là nhu cầu được ở, nhu cầu có nhà, hoặc nhu cầu chuyển nhượng, bán nhà cũ để mua nhà mới phù hợp hơn. Những nhu cầu này là hết sức chính đáng và đã diễn ra từ rất nhiều năm nay. Đây là những giao dịch mang tính an cư, phục vụ đời sống.
Thứ hai, là nhóm nhà đầu tư bất động sản để kinh doanh lâu dài. Họ mua thêm nhà để cho thuê, mua thêm bất động sản để mở cửa hàng, hoặc để phục vụ hoạt động sản xuất, dịch vụ... Những hoạt động này thực chất cũng giúp cho thị trường có những hoạt động tích cực, tạo ra giá trị sử dụng và nguồn cung cho xã hội. Họ đóng góp vào sự phát triển ổn định của thị trường bằng cách cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bất động sản.
Thứ ba, là nhóm đầu cơ để thổi giá, lướt sóng. Đây là những hoạt động mua bán nhanh chóng với mục đích trục lợi từ sự chênh lệch giá ngắn hạn, thường không tạo ra giá trị sử dụng thực sự cho xã hội mà lại có nguy cơ gây bất ổn thị trường. Việc của chúng ta là phải phân định rõ ràng những nhóm này ra một cách đầy đủ và chi tiết. Bởi vì chúng ta cần xác định rõ ràng cái nào nên khuyến khích, cái nào có thể miễn thuế và cái nào cần ngăn chặn. Nếu không làm rõ điều này và cứ đánh đồng tất cả các nhóm đối tượng với nhau, nó sẽ gây ra những hệ quả không tốt.
PV: Như cách giải thích của ông thì những hệ quả không tốt đó có thể là gì, thưa ông?
TS Nguyễn Văn Đính: Hậu quả đáng lo ngại nhất là nó có thể làm cho thị trường bất động sản bị tê liệt đi. Khi thị trường giao dịch sụt giảm mạnh, các nhà phát triển bất động sản đương nhiên sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Họ sẽ giảm doanh thu, suy yếu nguồn tài chính và điều này sẽ dẫn đến sức khỏe doanh nghiệp yếu đi. Thậm chí, nó có thể dẫn đến nhiều hệ lụy lớn hơn. Đồng thời, hoạt động phát triển, đầu tư, kinh doanh bất động sản nói chung có thể bị ảnh hưởng tiêu cực. Điều này sẽ ảnh hưởng chung đến cả sự phát triển kinh tế vĩ mô. Chúng ta đang đặt ra mục tiêu phấn đấu rất mạnh để đạt 8% GDP trong năm nay. Nhưng nếu không khéo léo trong việc áp dụng chính sách thuế này, chúng ta có thể làm sụt giảm các hoạt động bất động sản, kéo theo hệ lụy là không hoàn thành được mục tiêu tăng trưởng 8% GDP như Chính phủ đã đề ra.
Đề xuất chính sách thuế thu 20% lợi nhuận giao dịch bất động sản đang nhận được nhiều ý kiến băn khoăn, lo ngại từ dư luận.
PV: Đang có nhiều ý kiến e ngại rằng, mặc dù về mặt chính sách là phù hợp, nhưng thời điểm này để áp dụng thì chưa phù hợp lắm. Thị trường bất động sản đang trong giai đoạn khó khăn và phục hồi, sự thay đổi thuế đột ngột này có thể mang đến tâm lý hoang mang và phản ứng mạnh trong xã hội. Ông đánh giá thế nào về những lo ngại này?
TS Nguyễn Văn Đính: Tôi hoàn toàn đồng ý với những lo ngại này. Chúng ta cần phải hết sức thận trọng. Thứ nhất, người dân chưa quen với những phương thức tính thuế mới này. Thứ hai, chúng ta chưa giải thích cụ thể về những cái được và cái mất của chính sách. Người dân hiện tại chỉ nhìn nhận và thấy rằng các mức thuế đều có vẻ cao hơn, mạnh hơn so với trước đây. Điều này dẫn đến tâm lý e ngại, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư, đặc biệt là những người mua nhiều bất động sản để đầu tư kinh doanh chứ không phải chỉ mua để ở duy nhất, sẽ cảm thấy e ngại. Và như vậy, nó sẽ sụt giảm các giao dịch trên thị trường. Khi sức mua trên thị trường yếu đi, như tôi đã nói, các dự án bất động sản sẽ sụt giảm doanh thu. Các nhà phát triển sẽ dừng hoặc chậm phát triển các dự án, suy yếu sức khỏe tài chính. Điều này có thể dẫn đến những hệ lụy rất mạnh mẽ cho toàn thị trường.
PV: Không chỉ vậy, đang có nhiều ý kiến cho rằng, chính sách thuế này cũng còn một số thách thức để có thể triển khai. Ví dụ như hệ thống dữ liệu, hạ tầng kỹ thuật, rồi câu chuyện minh bạch giá cả… Ông nghĩ thế nào?
TS Nguyễn Văn Đính: Trước hết, để tránh được những hệ lụy tiêu cực như tôi nói ở trên thì tôi cho rằng có một số điểm cần lưu ý: Thứ nhất, về nội dung của luật thuế cần phải được làm thật kỹ. Cần phải tính toán cẩn thận sự ảnh hưởng của nó đến các đối tượng khác nhau và đến toàn bộ thị trường. Thứ hai, cần phải có một lộ trình rõ ràng cho việc áp dụng chính sách này. Không nên áp dụng một cách đột ngột. Thứ ba và điều này cực kỳ quan trọng, là phải có sự tuyên truyền một cách thấu đáo. Chúng ta cần phải giải thích rõ ràng, chi tiết, để toàn bộ người dân có thể chia sẻ, đồng cảm và ủng hộ chính sách này. Khi người dân hiểu rõ những lợi ích, những nguyên tắc công bằng mà chính sách mang lại, họ sẽ có tâm lý sẵn sàng chuẩn bị cho việc kinh doanh và tuân thủ.
Còn về những thách thức như anh vừa nói thì tôi cho rằng là đúng, đây cũng là những thách thức lớn. Hiện nay, chúng ta chưa có đầy đủ dữ liệu lịch sử về giao dịch bất động sản, cũng như hệ thống hóa đơn, chứng từ để chứng minh các chi phí một cách rõ ràng. Nhà nước hiện đang có xu hướng điều chỉnh tổng thể toàn bộ những vấn đề chưa đạt chất lượng, chưa đạt yêu cầu theo hướng quản lý chuyên nghiệp, văn minh, và phù hợp với sự hội nhập quốc tế.
Trong quá trình điều chỉnh này, có cả những vấn đề về công cụ thuế, về thể chế, về bộ máy và đặc biệt là về dữ liệu, về chuyển đổi số. Tất cả những nỗ lực này đều đang hướng đến việc xây dựng một nền tảng quản lý hiện đại và minh bạch. Trong đó, có cả những đề xuất về việc hướng giao dịch bất động sản qua một trung tâm dữ liệu quốc gia. Tất cả những điều này đều đang được định hướng và cần phải được làm, được bàn bạc và được chỉnh sửa một cách phù hợp. Thuế cũng là một trong những việc cần phải làm trong tổng thể đó. Khi chúng ta có những hệ thống dữ liệu chuẩn, số hóa chuẩn, tất cả sự đồng bộ này sẽ tạo ra một tính liên kết cao hơn. Và như vậy, xã hội sẽ đạt được sự công bằng và hiệu quả hơn trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả thu thuế.
PV: Là chuyên gia trong lĩnh vực bất động sản, ông có đề xuất nào về việc xây dựng chính sách thuế cho thị trường bất động sản trong bối cảnh hiện nay và tương lai không?
TS Nguyễn Văn Đính: Việc xây dựng chính sách thuế nói chung và chính sách thuế cho thị trường bất động sản nói riêng, cần phải nhận thức rõ rằng nó có hai mặt song song: Một mặt là điều tiết thị trường, và mặt kia là hỗ trợ thị trường. Chúng ta không thể mãi suy nghĩ rằng thị trường bất động sản sẽ luôn tăng trưởng nóng hoặc phát triển theo chiều hướng đi lên mãi. Sẽ có những thời điểm thị trường rơi vào giai đoạn đóng băng, đình trệ, giống như những gì đã xảy ra vào các năm 2008, 2011, hay 2012. Khi thị trường gặp khó khăn, chính sách thuế cần phải linh hoạt để xem xét việc giảm thuế suất nhằm kích thích và hỗ trợ thị trường phục hồi, phát triển trở lại.
Điều cực kỳ quan trọng là, việc xây dựng các đạo luật, bao gồm cả chính sách thuế, phải luôn đứng trên nền tảng thực tiễn của Việt Nam. Chúng ta cần luôn ghi nhớ rằng Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển. Đa số người dân vẫn có mức thu nhập trung bình hoặc thu nhập thấp. Số lượng người giàu có, siêu giàu tại Việt Nam vẫn còn rất ít so với tổng dân số. Vì vậy, bất kỳ chính sách thuế nào được ban hành cũng phải phù hợp với thực tiễn này để đảm bảo tính khả thi, công bằng xã hội và không gây gánh nặng quá lớn lên đại bộ phận người dân.
PV: Xin cảm ơn ông!
Phan Hoạt (thực hiện)