Hình minh họa
Diễn biến giá dầu thô
Trong tháng 2, giá dầu thô tham chiếu OPEC (ORB) giảm 2,57 USD/thùng, tương đương 3,2% so với tháng trước, xuống mức trung bình 76,81 USD/thùng. Hợp đồng dầu Brent giao tháng trước trên sàn ICE giảm 3,40 USD/thùng (4,3%), xuống còn trung bình 74,95 USD/thùng. Hợp đồng dầu WTI trên sàn NYMEX giảm 3,89 USD/thùng (5,2%), đạt mức trung bình 71,21 USD/thùng. Hợp đồng dầu Oman trên sàn GME giảm 2,94 USD/thùng (3,7%), xuống mức trung bình 77,28 USD/thùng.
Chênh lệch giá giữa hợp đồng dầu Brent và dầu WTI giao tháng 1 tăng 49 cent, lên mức trung bình 3,74 USD/thùng. Cấu trúc giá của các loại dầu thô chủ chốt như Brent, WTI và Oman đã có xu hướng phẳng hơn so với tháng trước, nhưng đường cong kỳ hạn vẫn duy trì trong trạng thái backwardation. Các quỹ đầu tư và nhà quản lý tiền tệ đã đóng một lượng lớn vị thế mua đối với dầu Brent và dầu WTI, đồng thời tăng mạnh vị thế bán dầu WTI trên sàn NYMEX lên mức cao nhất trong hơn một năm, khiến giá dầu kỳ hạn biến động mạnh và giảm nhanh hơn.
Tăng trưởng kinh tế thế giới
Dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn giữ nguyên ở mức 3,1% cho năm 2025 và 3,2% cho năm 2026. Dự báo tăng trưởng của Mỹ không thay đổi, lần lượt ở mức 2,4% và 2,3% cho hai năm này. Sau sự phục hồi trong quý IV/2024, dự báo tăng trưởng kinh tế Nhật Bản năm 2025 được điều chỉnh tăng nhẹ lên 1,2%, trong khi năm 2026 giữ nguyên ở mức 1,0%. Kinh tế khu vực Eurozone được dự báo tăng 0,9% vào năm 2025 và 1,1% vào năm 2026.
Dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc vẫn giữ ở mức 4,7% cho năm 2025 và 4,6% cho năm 2026. Ấn Độ dự kiến tiếp tục duy trì mức tăng trưởng 6,5% trong cả hai năm 2025 và 2026. Trong khi đó, Brazil được dự báo tăng trưởng 2,3% vào năm 2025 và 2,5% vào năm 2026. Nga dự kiến tăng trưởng 1,9% vào năm 2025 và 1,5% vào năm 2026, không thay đổi so với dự báo trước đó.
Cầu và cung dầu thế giới
Dự báo nhu cầu dầu toàn cầu năm 2025 và 2026 đều giữ nguyên ở mức tăng 1,4 triệu thùng/ngày (mb/d). Trong đó, nhu cầu tại OECD dự kiến tăng 0,1 mb/d mỗi năm, còn các nước ngoài OECD được dự báo tăng 1,3 mb/d.
Nguồn cung dầu từ các nước không tham gia Tuyên bố Hợp tác (Non-DoC) được dự báo sẽ tăng 1,0 triệu thùng/ngày (mb/d) trong năm 2025, không thay đổi so với dự báo tháng trước. Động lực tăng trưởng chính đến từ Mỹ, Brazil, Canada và Na Uy. Dự báo năm 2026 cũng duy trì mức tăng 1,0 mb/d, chủ yếu nhờ vào Mỹ, Brazil và Canada.
Trong khi đó, sản lượng khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) và các loại dầu phi truyền thống từ các nước tham gia Tuyên bố Hợp tác (DoC) được dự báo sẽ tăng 0,1 mb/d trong năm 2025, đạt mức trung bình 8,4 mb/d. Đến năm 2026, con số này tiếp tục tăng thêm 0,1 mb/d, đạt mức trung bình 8,5 mb/d.
Sản lượng dầu thô của các nước tham gia DoC trong tháng 2 tăng 363.000 thùng/ngày (tb/d) so với tháng trước, đạt trung bình khoảng 41,01 mb/d, theo dữ liệu từ các nguồn thứ cấp.
Thị trường sản phẩm dầu và hoạt động lọc dầu
Trong tháng 2, biên lợi nhuận lọc dầu tại tất cả các trung tâm giao dịch lớn đều tăng, do giá nguyên liệu đầu vào giảm, trong khi công suất lọc dầu bị hạn chế do nhiều nhà máy tạm ngừng hoạt động tại Bắc Bán cầu.
Tại Bờ Vịnh Mỹ, việc đóng cửa nhà máy lọc dầu do thời tiết vào tháng 1 đã tạo đà tăng giá cho nhiều sản phẩm trong tháng 2, đặc biệt là naphtha và xăng.
Tại Rotterdam, lợi nhuận lọc dầu ghi nhận mức tăng mạnh nhất, với biên lợi nhuận cải thiện đồng đều trên toàn bộ sản phẩm do nguồn cung giảm. Trong khi đó, tại Singapore, biên lợi nhuận lọc dầu tăng nhẹ do lượng naphtha nhập khẩu giảm, nguồn cung xăng hạn chế và lo ngại về nguồn cung nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh cao khiến giá các sản phẩm này tăng lên.
Thị trường tàu chở dầu
Cước phí vận chuyển dầu thô tăng trên hầu hết các tuyến giao dịch trong tháng 2. Đặc biệt, giá cước tàu VLCC tăng mạnh, do các lệnh trừng phạt mới khiến các nước phải tìm kiếm nguồn cung thay thế.
Cước phí vận chuyển dầu bằng tàu VLCC trên tuyến Trung Đông - Đông Á tăng 7%, trong khi tuyến Tây Phi - Đông Á tăng 5% so với tháng trước. Một phần mức tăng này cũng ảnh hưởng đến thị trường tàu Suezmax, với giá cước tuyến Tây Phi – Bờ Vịnh Mỹ tăng tới 20% theo tháng. Trong phân khúc tàu Aframax, giá cước vận chuyển trong khu vực Địa Trung Hải tăng 9% so với tháng trước, do nguồn cung tàu không bị trừng phạt bị thu hẹp và nhu cầu vận chuyển gia tăng.
Trên thị trường tàu chở dầu sạch, giá cước vận chuyển khu vực Đông Suez tăng trung bình 2%, trong khi khu vực Tây Suez tăng mạnh 12%, do nguồn cung tàu hạn chế trong khu vực.
Thương mại dầu thô và sản phẩm tinh chế
Trong tháng 2, nhập khẩu dầu thô của Mỹ giảm xuống dưới 6 triệu thùng/ngày (mb/d), trong khi xuất khẩu dầu thô tăng và duy trì trên mức 4 mb/d. Nhập khẩu các sản phẩm dầu của Mỹ thấp hơn mức trung bình của 5 năm qua, trong khi xuất khẩu các sản phẩm dầu vẫn ổn định ở mức cao nhất trong khoảng này.
Tại châu Âu, ước tính sơ bộ cho thấy nhập khẩu dầu thô trong tháng 2 tăng so với cả tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Nhật Bản ghi nhận tháng thứ 3 liên tiếp nhập khẩu dầu thô tăng, đạt trung bình 2,7 mb/d trong tháng 1, tăng hơn 5% so với tháng trước, nhờ nhu cầu cao do thời tiết lạnh kéo dài. So với cùng kỳ năm ngoái, nhập khẩu dầu thô của Nhật Bản tăng 10%, đánh dấu mức tăng trưởng đầu tiên trong 14 tháng.
Đối với Trung Quốc, ước tính sơ bộ cho thấy nhập khẩu dầu thô trung bình đạt 10,0 mb/d trong tháng 1, giảm 1,3 mb/d (tương đương hơn 11%) so với tháng trước. Dữ liệu hải quan sơ bộ cho thấy nhập khẩu dầu thô trung bình của Trung Quốc trong giai đoạn tháng 1 - 2 đạt 10,4 mb/d. Nhập khẩu các sản phẩm dầu của Trung Quốc trong tháng 1 giảm, chủ yếu do lượng khí hóa lỏng (LPG) nhập khẩu giảm mạnh.
Tại Ấn Độ, nhập khẩu dầu thô trung bình đạt 4,9 triệu thùng/ngày trong tháng 1, tăng 3% so với tháng trước. Lượng nhập khẩu sản phẩm dầu của nước này giữ nguyên ở mức trung bình 1,2 triệu thùng/ngày, trong đó LPG và naphtha giảm nhưng được bù đắp bởi xuất khẩu nhiên liệu nặng và các loại nhiên liệu khác tăng cao.
Biến động tồn kho thương mại
Dữ liệu sơ bộ trong tháng 1/2024 cho thấy tổng lượng dầu thương mại dự trữ của OECD tăng 1,0 mb so với tháng trước, đạt 2.738 mb, thấp hơn 188,1 mb so với mức trung bình giai đoạn 2015–2019.
Xét theo từng loại, tồn kho dầu thô tăng 16,8 mb, trong khi tồn kho sản phẩm dầu giảm 15,9 mb so với tháng trước. Tồn kho dầu thô thương mại của OECD đạt 1.298 mb, thấp hơn 132,9 mb so với mức trung bình giai đoạn 2015–2019. Tổng lượng tồn kho sản phẩm dầu của OECD đạt 1.440 mb, thấp hơn 55,2 mb so với mức trung bình giai đoạn 2015–2019. Dự trữ tính theo số ngày cung ứng trong tương lai của OECD giảm 0,3 ngày so với tháng trước, xuống còn 60,7 ngày – thấp hơn 1,3 ngày so với mức trung bình giai đoạn 2015–2019.
Nh.Thạch
AFP