'Phao cứu sinh' của lao động thất nghiệp

'Phao cứu sinh' của lao động thất nghiệp
19 giờ trướcBài gốc
Ngoài việc đổi mới chính sách bảo hiểm thất nghiệp cần có cơ chế giúp người lao động sớm có cơ hội quay lại thị trường. Ảnh: Văn Học
Khó khăn chồng khó khăn
Từng nhận trợ cấp thất nghiệp trong ba tháng sau khi mất việc ở một công ty chế biến thủy sản, chị Nguyễn Thị Lâm (ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh) chia sẻ, khoản hỗ trợ 3,8 triệu đồng/tháng mà chị được nhận là quá ít so chi phí sinh hoạt thực tế. “Khoản trợ cấp không bằng một nửa mức lương khi đi làm. Trong khi đó, tôi phải trả chi phí thuê nhà, điện, nước, nuôi con… Nếu doanh nghiệp đóng theo mức lương thực nhận thì người lao động được chia sẻ nhiều hơn”, chị Lâm giãi bày. Cùng cảnh, anh Huỳnh Văn Chánh đang loay hoay tìm việc làm mới. Với mức trợ cấp thất nghiệp ba triệu đồng mỗi tháng, cuộc sống của vợ chồng anh gặp nhiều khó khăn.
Về phía người sử dụng lao động, ông Lê Công Bảy, giám đốc một doanh nghiệp nhỏ tại Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định, việc tăng mức trợ cấp thất nghiệp là cần thiết. Song, nếu yêu cầu doanh nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp theo lương thực tế sẽ góp phần đẩy chi phí của doanh nghiệp lên cao. “Chính sách trợ cấp thất nghiệp cần được xây dựng theo hướng hài hòa, vừa hỗ trợ người lao động, vừa kiểm soát chi phí Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, lại vừa tạo động lực để họ sớm quay lại thị trường lao động”, ông Bảy kiến nghị.
Theo quy định, người lao động được nhận trợ cấp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng của sáu tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất, trước khi bị chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên, mức trợ cấp này không vượt quá năm lần mức lương tối thiểu vùng. Trải qua 16 năm triển khai (từ năm 2009), chính sách bảo hiểm thất nghiệp đang bộc lộ nhiều bất cập. Bà Hồ Thị Kim Ngân, Phó trưởng Ban quan hệ lao động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), cho biết: Chúng ta luôn nói rằng, chế độ trợ cấp là bù đắp một phần cho rủi ro trong quá trình lao động. Nhưng bù đắp phải giúp họ có động lực, cơ hội quay lại thị trường lao động.
Tính toán các giải pháp bền vững
Để mức trợ cấp hỗ trợ được người lao động, đồng thời tạo động lực để họ tiếp tục tham gia bảo hiểm, nhiều ý kiến đề xuất nâng mức trợ cấp thất nghiệp lên 65-75%. Tuy nhiên, theo ông Trần Tuấn Tú, Trưởng phòng Bảo hiểm thất nghiệp, Cục Việc làm (Bộ Nội vụ), Quỹ bảo hiểm thất nghiệp hoạt động trên cơ sở đóng và chi cho người đóng, cân đối trong Quỹ. Nếu tăng mức hưởng thì phải tăng mức đóng; sẽ không khả thi nếu chỉ muốn tăng mức hưởng mà không tăng mức đóng.
Còn theo chuyên gia lao động Bùi Sỹ Lợi (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội), chính sách bảo hiểm thất nghiệp cần được điều chỉnh theo xu hướng tối đa hóa quyền lợi cho người lao động, trên cơ sở cân đối hợp lý nguồn lực của Quỹ. Đồng thời cần xem lại quy định mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp tối đa 12 tháng. Nguyên tắc có đóng-có hưởng phải được thực hiện công bằng. Người lao động càng có nhiều năm đóng bảo hiểm thất nghiệp thì càng phải được hưởng tương xứng. Thời gian hưởng nên được tính theo số năm đóng bảo hiểm thất nghiệp. Thí dụ, mỗi năm đóng được tính tương ứng với một tháng trợ cấp. Người lao động có 15 năm tham gia có thể được hưởng 15 tháng trợ cấp, thay vì chỉ tối đa 12 tháng như quy định hiện hành.
Cũng có chuyên gia khuyến nghị, trước mắt, cần tăng cường giám sát các doanh nghiệp lớn để bảo đảm việc đóng bảo hiểm thất nghiệp ở mức thực chất, tức là đóng theo thu nhập; cần phân biệt giữa lao động thật sự thất nghiệp và nhóm chủ động nghỉ việc để tìm cơ hội mới. Với trường hợp “nhảy việc”, bản chất không phải thất nghiệp nên phải tính toán lại mức trợ cấp.
Bà Nguyễn Thị Việt Nga, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, nhìn nhận, chính sách bảo hiểm thất nghiệp hiện nay chỉ đặt nặng trợ cấp ngắn hạn mà chưa có giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, giảm tình trạng thất nghiệp.
Ngày 1/7 tới đây, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có hiệu lực, tạo cơ sở pháp lý để hỗ trợ tốt hơn cho người lao động thất nghiệp. Cụ thể, đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương tháng theo chức vụ, chức danh, ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề... Còn đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là tiền lương tháng, bao gồm: Mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác được thỏa thuận trả thường xuyên, ổn định trong mỗi kỳ trả lương.
Cơ chế nói trên khi tương thích với các bộ luật liên quan sẽ chỉ đi vào cuộc sống khi những văn bản dưới luật được xây dựng theo tinh thần đổi mới, giải quyết các điểm còn chưa sát thực tế. Từ đó, chính sách bảo hiểm thất nghiệp mới thật sự “trợ lực” cho lao động thất nghiệp.
Về lâu dài, ngoài hỗ trợ tài chính cho người lao động trong thời gian thất nghiệp, cần phải góp phần kết nối việc làm, đặc biệt là thực hiện tốt hơn việc đào tạo lại, dạy nghề và hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động.
HẢI MIÊN
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/phao-cuu-sinh-cua-lao-dong-that-nghiep-post886345.html