Pháp môn hành khi 'độc cư'

Pháp môn hành khi 'độc cư'
4 giờ trướcBài gốc
Phần I. Tương ưng bộ kinh, Chương Tám: Tương ưng Anuruddha, Phẩm Độc cư
"Tôn giả Anuruddha trong khi độc cư Thiền tịnh, tâm tưởng suy tư sau đây được khởi lên: "Những ai thối thất bốn niệm xứ, cũng thối thất đối với họ là Thánh đạo đưa đến chân chính đoạn tận khổ đau. Những ai thành tựu bốn niệm xứ thì cũng thực hiện được Thánh đạo đưa đến chân chính đoạn tận khổ đau"
Cho đến như thế nào, này Hiền giả Anurud-dha, Tỷ-kheo thực hiện bốn niệm xứ?
- Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo trú, quán tính tập khởi trên nội thân.. quán tính đoạn diệt trên nội thân, quán tính tập khởi, tính đoạn diệt trên nội thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Vị ấy trú, quán tính tập khởi trên ngoại thân... quán tính đoạn diệt ngoại thân, quán tính tập khởi, tính đoạn diệt trên ngoại thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Vị ấy trú, quán tính tập khởi trên nội ngoại thân... trú, quán tính đoạn diệt trên nội ngoại thân... trú, quán tính tập khởi và tính đoạn diệt trên nội ngoại thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với tưởng nhàm chán đối với pháp không nhàm chán"; vị ấy trú ở đây với tưởng nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán"; vị ấy trú ở đây với tưởng không nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với tưởng nhàm chán đối với các pháp không nhàm chán và pháp nhàm chán"; vị ấy trú ở đây với tưởng nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán và pháp không nhàm chán"; vị ấy trú ở đây với tưởng không nhàm chán. Nếu vị ấy muốn: "Từ bỏ cả hai, không nhàm chán và nhàm chán, ta sẽ trú xả, chính niệm, tỉnh giác"; vị ấy trú ở đây với xả, chính niệm, tỉnh giác.
Vị ấy trú, quán tính tập khởi trên các nội thọ. Vị ấy trú, quán tính đoạn diệt trên các nội thọ. Vị ấy trú, quán tính tập khởi và tính đoạn diệt trên các nội thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán tính tập khởi trên các ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tính đoạn diệt trên các ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tính tập khởi và tính đoạn diệt trên các ngoại thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Vị ấy trú, quán tính tập khởi trên các nội ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tính đoạn diệt trên các nội ngoại thọ. Vị ấy trú, quán tính tập khởi và tính đoạn diệt trên các nội ngoại thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời."
Tương tự với tâm và pháp:
"Nếu vị ấy muốn... ... trên nội tâm... trên ngoại tâm... trên nội ngoại tâm.
Nếu vị ấy muốn... ...trên nội pháp... ... trên ngoại pháp...
Vị ấy trú, quán tính tập khởi trên các nội ngoại pháp. Vị ấy trú, quán tính đoạn diệt trên các nội ngoại pháp. Vị ấy trú, quán tính tập khởi và tính đoạn diệt trên các nội ngoại pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Nếu vị ấy muốn: "Ta sẽ trú với tưởng nhàm chán đối với pháp không nhàm chán"; vị ấy trú ở đây với tưởng nhàm chán... Ở đây, vị ấy trú xả, chính niệm, tỉnh giác.
Cho đến như vậy, này Hiền giả, là Tỷ-kheo thực hiện bốn niệm xứ."
Ảnh minh họa thiết kế bởi AI - Tạp chí Nghiên cứu Phật học
Phần II. Luận giải đoạn kinh
1. Độc cư
Độc cư là hình thức hành trì mà hành giả tách mình khỏi quần chúng, thân ở nơi vắng, tâm an tĩnh, không bị chi phối bởi ngoại cảnh và tưởng tư duy về những điều không thực sự đang hiện hữu. Tuy nhiên, độc cư không chỉ là ở một mình về hình thức, mà là ở một mình trong chính niệm, quán sát sự sinh diệt của các pháp, đoạn trừ tham ưu ở đời.
Cần phân biệt rõ hai thuật ngữ trong tiếng Việt: “độc cư” (sống một mình có chủ đích) và “cô độc” hay "cô đơn" (trạng thái lẻ loi và khổ tâm). Trong tiếng Anh được định nghĩa như sau: "We define solitude as a healthy, personal discipline that allows you to engage in meaningful self-reflection. Loneliness, however, is a state of sadness because one has no friends or company." Tạm dịch: "Chúng tôi định nghĩa sự độc cư là một kỷ luật cá nhân lành mạnh cho phép bạn tham gia vào quá trình tự suy ngẫm có ý nghĩa. Tuy nhiên, cô đơn/ cô độc là một trạng thái “buồn vì không có bạn bè hay bầu bạn." Cô độc (loneliness) được xét trên phương diện “bị động”, khởi lên sự phiền não. Trong khi độc cư (solitude) lại là trạng thái “chủ động”, là một phương tiện hướng tới mục đích tu tập. Nếu không có sự hướng tâm với chủ đích, ở một mình chỉ dẫn tới cảm giác trống trải; còn khi biết an trú xả bỏ, đoạn diệt tam độc, một mình lại là cơ hội mầu nhiệm để hiểu và thương chính mình.
Khi ở trong trạng thái độc cư, ý thức không có đối tượng cụ thể và ổn định để bám vào, lúc này là thời điểm hành giả cảm nhận được rõ nét sự lăng xăng, bấn loạn của tâm ý mình. Bốn niệm xứ là trung tâm của toàn bộ đạo lộ, là nền tảng để hành giả nương theo khi độc cư, là cơ hội để lắng đọng ý, quán chiếu ý nghiệp chảy mạnh mẽ tới mức nào.
Khi hành giả độc cư, không có đối tượng bên ngoài để bám víu, thì việc quán thân, thọ, tâm, pháp trở thành cánh cửa duy nhất để nhận diện sự thật về khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ, và con đường diệt khổ.
2. Phương pháp hành độc cư qua bốn niệm xứ
Kinh mô tả tỉ mỉ cách vị Tỷ-kheo trú quán tính tập khởi và tính đoạn diệt trên bốn đối tượng: thân, thọ, tâm, pháp cả nội và ngoại. Ở đây, “tính tập khởi và tính đoạn diệt” là chìa khóa. Khi độc cư, hành giả có cơ hội thấy rõ sự sinh khởi và hoại diệt của mọi hiện tượng, không còn bị xao động bởi ngoại duyên, đặc biệt khi quán sâu, hành giả nhận thấy không cụ thể có cái gì là mình cả. Mà tất cả là tổ hợp của một dòng nghiệp lực. Quán 4 đối tượng như thế, tâm diệt được chấp ngã, vọng tưởng tan rã, và hành giả nhiếp phục được tham ưu ở đời, tức là ra khỏi ràng buộc của cảm xúc và ham muốn. Độc cư mà không quán chiếu, chỉ là cô lập; còn độc cư với niệm xứ là pháp hành tuệ quán, nơi tịch tĩnh và minh sát cùng sinh khởi.
3. Trú xả và chính niệm là đỉnh cao của độc cư
Kinh dạy nếu vị ấy muốn từ bỏ cả hai, không nhàm chán và nhàm chán, vị ấy trú xả, chính niệm, tỉnh giác. Đây là giai đoạn trung đạo của hành độc cư. Hành giả không còn phân biệt “ưa – chán”, “được – mất”, mà an trú trong xả niệm thanh tịnh. Chính nơi đó, tâm không còn dao động, an nhiên giữa hai cực đoan, đạt đến thể tính tịch diệt của các pháp. Độc cư đạt đến mức này không còn là tu tập, mà là sống trong pháp, là an trú Niết-bàn tại đây và bây giờ.
“Nếu vị ấy muốn”, cho thấy hành giả chủ động tác ý để điều hướng tâm trong thiền định. Đây không phải là “muốn” theo nghĩa ái dục, mà là tác ý có chính trí, nhằm huấn luyện tâm ở từng tầng vi tế của cảm thọ và tưởng.
5 tầng an trú
(1). Trú với tưởng nhàm chán đối với pháp không nhàm chán
(2). Trú với tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán
(3). Trú với tưởng nhàm chán đối với cả hai pháp nhàm chán và không nhàm chán
(4). Trú với tưởng không nhàm chán đối với cả hai pháp nhàm chán và không nhàm chán
(5). Từ bỏ cả hai, trú xả, chính niệm, tỉnh giác
Tầng 1: Đây là giai đoạn đối trị dục tâm. “Pháp không nhàm chán” là các pháp khiến tâm ưa thích, dính mắc (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Hành giả quán chiếu bản chất vô thường, khổ, vô ngã của chúng, để phát khởi tưởng nhàm chán, nhằm đoạn trừ hỷ tham. Đây là tưởng quán về sự chán lìa, khởi đầu của hành độc cư, vì chỉ khi chán pháp thế gian, tâm mới có thể yên tĩnh nơi vắng lặng không bị cuốn về dục ái.
Tầng 2: Khi tưởng nhàm chán khởi mạnh, có thể sinh tâm ghét bỏ, mỏi mệt, dẫn đến hành vi phản ứng cực đoan. Bấy giờ hành giả trú với tưởng không nhàm chán đối với pháp nhàm chán, nghĩa là nhìn thấy bản chất các pháp mà không chấp thủ vào ý niệm chán hay ghét. Đây là sự quân bình cảm xúc, ngăn tâm rơi vào biên kiến chối bỏ.
Tầng 3. Ở tầng này, hành giả thấy rằng cả hai thái độ ưa và ghét đều thuộc phạm vi đối đãi, một khi rơi vào đối đãi thì dễ sinh cực đoan ở phía còn lại. Dù là pháp khiến ưa thích hay pháp khiến chán ghét, tất cả đều vô thường. Do đó, hành giả nhàm chán cả sự nhàm chán và không nhàm chán. Đây là tầng nhận thức về tính duyên sinh của tưởng, thấy rằng ngay cả cảm xúc tu tập cũng không thật.
Tầng 4. Sau khi quán thấy sự vô thường của mọi tưởng, hành giả không còn nhàm chán bất kỳ pháp nào, không vì chán mà lìa, không vì ưa mà đến. Đây là tâm bình thản trước mọi đối tượng, là tưởng vô ngại, tâm không dao động. Đó là nền tảng cho xả niệm thanh tịnh.
Tầng 5. “Từ bỏ cả hai”. Đây là đỉnh cao của thiền quán độc cư. Khi hành giả không còn khởi tưởng nào đối trị tưởng nào, chỉ an trú trong xả, chính niệm, tỉnh giác, thì mọi pháp sinh diệt đều được thấy như chúng là lý duyên khởi.
Kết luận
Pháp môn Bốn niệm xứ khi thực hiện độc cư là con đường giúp hành giả thấu triệt sự sinh diệt của pháp, không bị chi phối bởi tưởng, ghi nhận sự hiện hữu thật sự của những gì diễn ra nơi thân, tâm, đạt đến xả, chính niệm, tỉnh giác.
Khi độc cư thành tựu, khi hành giả an trú trong bốn niệm xứ, cũng là an trú trong Thánh đạo, nơi khổ được đoạn tận, lý duyên khởi được thấu triệt.
Cư sĩ Phúc Quang
Tài liệu: Tương ưng bộ kinh, Chương Tám: Tương ưng Anuruddha, Phẩm Độc cư, Dịch giả: HT. Thích Minh Châu.
Nguồn Tạp chí Phật học : https://tapchinghiencuuphathoc.vn/phap-mon-hanh-khi-doc-cu.html