Thân thế, sự nghiệp hai vị tướng quân
Nằm trong dòng chảy của lịch sử, đất Phù Kinh xưa được hình thành từ những cuộc di dân ở các địa phương miền Bắc vào dưới thời Lý, Trần, Lê và những năm đầu thời chúa Nguyễn. Tiếp cận gia phả họ Hoàng Phù Kinh được biết, họ Hoàng Phù Kinh có từ triều Lý (thế kỷ XI), xưa vốn quê xã Lý Trai, huyện Phúc Khê, tỉnh Nghệ An, theo chiêu mộ cư dân di dân lập ấp tại xã Phù Kinh, châu Bố Chính, phủ Tân Bình.
Sử sách lưu lại rằng, vào những năm cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, phe phái Mạc Đăng Dung lợi dụng triều Lê suy vong, đoạt ngôi, lập ra vương triều nhà Mạc. Lúc bấy giờ, đất nước bị giặc phương Bắc quấy nhiễu hòng xâm lược nước ta, trong nước các cuộc nổi dậy đấu tranh giành quyền lực của các phe phái phong kiến làm cho đời sống Nhân dân lâm vào cảnh cơ cực, thống khổ.
Năm 1540, trước sự đe dọa của nhà Minh (Trung Quốc), Mạc Đăng Dung dâng đất 6 động vùng Vĩnh An (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) để cầu hòa với nhà Minh, xúc phạm tinh thần độc lập dân tộc và danh dự của Tổ quốc, vì vậy Nhân dân và hào kiệt các nơi theo về giúp triều Lê Trung Hưng rất đông.
Lăng mộ hai vị công thần - Ảnh: M.T
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ lịch sử dân tộc đầy biến động, từ vùng đất Phù Kinh (thuộc châu Bố Chính, phủ Tân Bình)-nơi vốn là phên dậu phía Nam của nước Đại Việt, ông Hoàng Vĩnh Tộ đã gia nhập vào đội quân của tướng Nguyễn Kim, phò Lê diệt Mạc.
Tương truyền, thuở còn nhỏ, ông là cậu bé khôi ngô, tuấn tú, thông minh. Trưởng thành, ông là một thanh niên hào kiệt, có sức khỏe phi thường, có chí khí thông minh, hiểu biết hơn người, giàu lòng yêu nước thương dân. Hoàng Vĩnh Tộ đã nhiều lần xung trận, chém giặc, lập nhiều chiến công to lớn. Ghi nhận công lao của ông, năm Thuận Đức thứ I (1600), ông được vinh phong chức Hiệp mưu dương vũ công thần, Đặc tiến Phụ quốc thượng, Tướng quân cẩm y vệ, thực vệ sự Hầu tước. Khi mất, ông được truy phong tước Phúc Khê hầu Đại vương tôn thần (theo văn bia và gia phả họ Hoàng Phù Kinh).
Tiếp bước cha Hoàng Vĩnh Tộ, con trai trưởng của ông là Hoàng Vĩnh Dụ từ nhỏ vốn cũng là người đầy khí chất thông minh, lanh lợi, có sức khỏe phi thường, giỏi võ thuật, lớn lên Hoàng Vĩnh Dụ đã cùng cha tham gia nhiều trận chiến chống giặc, góp công lao to lớn. Đặc biệt chiến công lừng lẫy là tiêu diệt quân ngụy Mạc ở trận địa đầu đất Giao Thủy (Nam Định). Năm Vĩnh Tộ triều Lê thứ 10 (1628), ông được vinh phong là Dương vũ uy dũng tán trị công thần đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân điện tiền đô hiệu điểm ty Tả hiệu điểm Hầu tước. Khi mất ông được truy phong tước Hoằng dũng Đại vương tôn thần.
Hai vị công thần Hoàng Vĩnh Tộ và con là Hoàng Vĩnh Dụ đã có công phò vua, giúp nước, đánh dẹp quân ngụy Mạc, chống sự cát cứ chia rẽ đất nước, chống giặc ngoại xâm, lập công trạng được vua Lê phong tước Hầu (là tước vị vô cùng cao quý trong các triều đại phong kiến nước ta). Trong thời nhà Lê nói riêng, các triều đại phong kiến Việt Nam nói chung, việc hai cha con đều được vinh phong Thượng Tướng quân là điều hiếm có.
Văn bia Đền Song Trung-một bảo vật quốc gia
Tưởng nhớ đến công lao to lớn của hai cha con dòng họ Hoàng là Hoàng Vĩnh Tộ và con là Hoàng Vĩnh Dụ, vào khoảng năm 1650, Nhân dân đã lập Đền Song Trung thờ hai công thần triều Lê và đầu năm Cảnh Hưng thứ 17 (1756) tấm văn bia Đền Song Trung được Phụng lập. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử và khí hậu khắc nghiệt nhưng văn bia còn khá nguyên vẹn, được khắc trên đá xanh nguyên khối. Nội dung và chữ nghĩa trên bia vẫn còn khá rõ ràng, đầy đủ. Đây là một trong số ít văn bia, có giá trị cao tại Quảng Bình (nay là tỉnh Quảng Trị).
Theo Tiến sĩ Võ Quang Vinh (ở TP. Huế) thì văn bia Song Trung Miếu bi tại đền thờ Hoàng Vĩnh Tộ, Hoàng Vĩnh Dụ có những hoa văn trang trí khá độc đáo, đặc trưng khá thú vị. Đó là hình tượng hổ phù kiểu thức “Rồng ngậm chữ Thọ… (hình tượng rồng ngậm chữ thọ với thân rồng và móng rồng hóa mây và dây leo) ở trán bia trông rất mềm mại, độc đáo. Móng rồng thì được cách điệu hóa như những đám mây. Phía dưới là khung tiêu đề “Song Trung miếu bi”. Viền bên ngoài của tấm bia là hoa văn dây leo kết hợp với dích dắc lượn sóng. Bia đá được chạm khắc công phu, chữ Hán chân rất đẹp.
Còn theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng: “Tấm văn bia của Đền Song Trung là loại bia có niên đại khá sớm ở Quảng Bình và khu vực miền Trung. Đây là văn bia (có bài ký) ghi lại rõ ràng lịch sử mảnh đất, thân thế, sự nghiệp, truyền thống của hai vị Thượng tướng quân vào thời Lê Trung Hưng. Đây là một tác phẩm văn học sử vô giá, là một bảo vật của quốc gia cần được bảo vệ…”.
Đền Song Trung - Ảnh: M.T
Đền Song Trung uy nghiêm nằm bên cạnh núi Lèn Rồng soi bóng dòng sông Gianh lịch sử, đối diện bên kia sông là dãy núi Lệ Sơn trùng điệp 99 chóp huyền thoại cùng soi bóng, đúng là mảnh đất sơn thủy hữu tình, địa linh nhân kiệt, hiếm nơi nào có được. Còn khu lăng mộ hai vị thượng tướng quân nằm trên núi Rú Vắp lộng gió bốn phương tám hướng, phía trước sông Gianh, phía sau là sông Rào Sau bao quanh tạo nên khung cảnh tuyệt vời. Với hình sông thế núi linh thiêng, hội tụ sinh khí phát tài phát lộc muôn đời con cháu.
Di tích lịch sử Đền Song Trung và mộ Hoàng Vĩnh Tộ, Hoàng Vĩnh Dụ được xếp hạng Di tích Quốc gia càng khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu, gắn liền truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Bồi đắp niềm tự hào dân tộc và góp phần không nhỏ trong việc giáo dục, phát huy truyền thống vùng đất địa linh nhân kiệt cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Hoàng Minh Tiến