Trường PTDT nội trú THCS Tri Tôn (An Giang) tổ chức hoạt động chào mừng Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer. Ảnh: Báo An Giang.
Củng cố mạng lưới, nâng cao chất lượng giáo dục dân tộc nội trú
Tại An Giang, mạng lưới trường phổ thông dân tộc nội trú khá hoàn chỉnh, phát triển rộng khắp đến các xã, phường, đặc khu, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Quy hoạch mạng lưới và quy mô các trường phổ thông dân tộc nội trú được đánh giá là hợp lý, phù hợp với điều kiện địa phương.
Ông Trần Quang Bảo - Giám đốc Sở GD&ĐT An Giang cho biết, toàn tỉnh có 9 trường phổ thông dân tộc nội trú đều được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Trong đó, có 2 trường phổ thông dân tộc nội trú THPT với 27 lớp, 917 học sinh, 7 trường phổ thông dân tộc nội trú THCS với 68 lớp, 2.264 học sinh.
Các trường phổ thông dân tộc nội trú được bố trí hợp lý, phù hợp với đặc điểm tự nhiên và kinh tế, chính trị của địa phương, tập trung tại các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số (Khmer, Chăm, Hoa) hoặc giáp biên giới.
Hầu hết cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo và được tập huấn đầy đủ để đáp ứng Chương trình GDPT 2018. Chất lượng giáo dục và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp của các trường phổ thông dân tộc nội trú đạt mức cao, nhiều trường dẫn đầu toàn tỉnh, khẳng định vị thế là trường hàng đầu trong vùng dân tộc thiếu số, miền núi.
Sở GD&ĐT đã thực hiện đúng, đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người dạy, người học và các cơ sở giáo dục ở vùng dân tộc thiếu số, vùng đặc biệt khó khăn. Các chính sách này đã tạo động lực cho con em đồng bào các dân tộc vươn lên trong học tập và rèn luyện.
Về khó khăn, bất cập, ông Trần Quang Bảo cho biết, việc thực hiện kế hoạch tuyển sinh theo tỷ lệ ở xã đặc biệt khó khăn dẫn đến có học sinh điểm thi thấp vẫn trúng tuyển, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục. Vẫn còn học sinh trúng tuyển nhưng không nhập học do nhiều nguyên nhân.
Địa bàn tuyển sinh của các trường phổ thông dân tộc nội trú ngày càng bị thu hẹp do quy định về hộ khẩu thường trú và định cư từ 3 năm trở lên ở vùng đặc biệt khó khăn, khiến học sinh ở một số xã đảo không còn đúng đối tượng tuyển sinh.
Học sinh dân tộc thiểu số gặp khó khăn khi thích nghi với môi trường quản lý nội trú chặt chẽ và sống xa gia đình, dẫn đến căng thẳng và ảnh hưởng kết quả học tập.
Một số khu vực vùng sâu, vùng xa thiếu hạ tầng mạng ổn định và nhiều phụ huynh còn hạn chế kỹ năng sử dụng công nghệ, gây khó khăn cho việc triển khai phần mềm tuyển sinh trực tuyến.
Cũng theo ông Trần Quang Bảo, ở các trường này, việc bổ sung cơ sở vật chất tương ứng với việc tăng quy mô học sinh còn chậm. Ngân sách địa phương gặp khó khăn, nên chưa thể đầu tư đủ 100% thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định. Các trường còn thiếu phòng ở nội trú (diện tích), nhà vệ sinh, khu vệ sinh, công trình nước sạch và bếp ăn tập thể đạt tiêu chuẩn.
Hầu hết các trường trường phổ thông dân tộc nội trú không có giáo viên cơ hữu dạy tiếng Khmer do khó khăn trong việc mở các lớp đào tạo. Đội ngũ nhân viên cũng thiếu, gây khó khăn trong chăm sóc, nuôi dưỡng học sinh.
Trường PTDT nội trú THPT An Giang khánh thành từ năm 2017.
Đề xuất chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, tạo chuyển biến bền vững
Để nâng cao chất lượng các trường phổ thông dân tộc nội trú, Giám đốc Sở GD&ĐT An Giang kiến nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia cho các trường trường phổ thông dân tộc nội trú và trường phổ thông dân tộc bán trú so với giai đoạn 2021-2025.
Đồng thời, đa dạng hóa hình thức đào tạo, đảm bảo phù hợp với điều kiện, nhu cầu người học, cán bộ người dân tộc thiểu số như đào tạo tại chỗ, trực tuyến, bán trú, nội trú…Gắn công tác tuyển dụng, quy hoạch với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số.
Học sinh được cấp tiền tàu xe theo giá vé thông thường của phương tiện vận tải công cộng, mỗi năm 2 lần (cả lượt đi và lượt về) để thăm gia đình vào dịp Tết và dịp nghỉ hè.
Về công tác tuyển sinh, ông Trần Quang Bảo kiến nghị tăng cường quy mô và mở rộng vùng tuyển sinh cho trường trường phổ thông dân tộc nội trú để đáp ứng nhu cầu về số lượng học sinh đồng thời vẫn duy trì chất lượng đầu vào.
Về cơ sở vật chất và thiết bị, ông Trần Quang Bảo mong muốn tiếp tục ưu tiên nguồn kinh phí từ Chương trình mục tiêu Quốc gia và đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030 để xây dựng thêm phòng học, phòng bộ môn, khu ký túc xá và các công trình phụ trợ khác. Cấp có thẩm quyền cấp kinh phí từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2026-2030 cho ngành GD-ĐT An Giang cao hơn giai đoạn 2021-2025 để mua sắm, trang cấp thêm thiết bị dạy học tối thiểu.
Về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, ông Trần Quang Bảo kiến nghị Bộ GD&ĐT sớm ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật để địa phương có cơ sở pháp lý thực hiện đặt hàng các trường đại học mở lớp đào tạo giáo viên dạy tiếng Khmer theo quy định. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn, tổ chức thêm các khóa tập huấn chuyên sâu, thực tiễn cho giáo viên, tập trung vào các môn học tích hợp, phương pháp giảng dạy mới và sử dụng công nghệ trong dạy học.
Cùng với đó, tuyển dụng và phân bổ giáo viên hợp lý, ưu tiên giáo viên có kinh nghiệm, kỹ năng giảng dạy tại các trường vùng sâu, vùng xa, khuyến khích tuyển dụng giáo viên bản địa. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích giáo viên công tác tại các trường phổ thông dân tộc nội trú (phụ cấp, hỗ trợ nơi ở, điều kiện sinh hoạt).
Về hỗ trợ học sinh và quản lý giáo dục, Giám đốc Sở GD&ĐT An Giang cho rằng, cần tăng cường hỗ trợ học sinh về ngôn ngữ bằng cách tổ chức các lớp học bổ trợ tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số. Khuyến khích hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ học tập, các chương trình giáo dục kỹ năng mềm để giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học, giải quyết vấn đề và giao tiếp. Mở rộng các chương trình học bổng, hỗ trợ tài chính cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Sở GD&ĐT sẽ tăng cường giám sát, hỗ trợ trong triển khai Chương trình GDPT 2018 và nội dung giáo dục đặc thù…
Hải Bình