Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân huyện đảo Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng _Ảnh: TTXVN
Quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng về vai trò, vị trí của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước
Trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về “dân”, với nội hàm rất rộng và chủ yếu đề cập đến nhân dân. Người thường diễn đạt quan niệm về nhân dân bằng nhiều cách gọi khác nhau, như “nhân dân”, “dân ta”, “dân chúng”, “dân” hay “đồng bào”, thể hiện sự gần gũi và dễ hiểu. Người chỉ rõ: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”(1). Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Người đề cập đến “nhân dân”, với hàm nghĩa mọi người dân nước Việt đều là “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện, dân tộc. Luôn coi trọng vai trò, sức mạnh của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(2), bởi “Ý DÂN LÀ Ý TRỜI./ Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời nói chí lý của thánh hiền đời xưa”(3).
Truyền thống “trọng dân” - một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, luôn được Đảng ta kế thừa và phát huy, là tiền đề để Đảng khẳng định vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, với quan điểm xuyên suốt: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử, dân là gốc của nước, là cơ sở của mọi thắng lợi, là lực lượng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”(4); “Gốc có vững cây mới bền,/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(5).
Quan điểm “dân là gốc” được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội của Đảng và một bài học kinh nghiệm lớn, đúc rút từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, được ghi trong Cương lĩnh chính trị của Đảng: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(6).
Tại Đại hội XIII của Đảng, quan điểm đó không chỉ được nhấn mạnh hơn trong Văn kiện, mà lần đầu tiên Đảng ta xác định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân với phương hướng: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(7), “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”(8). Quan điểm này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, trên tất cả nội dung và lĩnh vực: Từ hoạch định đường lối, chủ trương, xây dựng chính sách, pháp luật đến việc tổ chức thực hiện; trong các lĩnh vực từ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại đến xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Trong Bài phát biểu tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”(9). Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quan điểm lấy nhân dân là trung tâm được tiếp tục làm rõ và nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(10).
Quan điểm này được cụ thể hóa thành phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp có tính tổng thể, bao trùm và liên quan trực tiếp đến lợi ích “thụ hưởng” của mọi người dân. Điều đó thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp, nhân văn của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo đó, sự lãnh đạo của Đảng hướng vào vị trí trung tâm là nhân dân, nhằm khơi thông nguồn lực và sức sáng tạo vô tận của nhân dân; đồng thời, chăm lo xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. “Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(11).
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài thăm hỏi người cao tuổi dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại thôn Lai Tảo, xã Bột Xuyên, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội _Nguồn: quochoi.vn
Một số vấn đề cần chú trọng trong việc phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay
Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu to lớn đó chính là kết quả của ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; đồng thời, cũng là minh chứng cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và việc phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong phát triển đất nước.
Đại hội XIII của Đảng đề ra các mục tiêu quan trọng, như: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp./ Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao./ Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(12). Để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả đó, có một số vấn đề cần chú trọng trong việc phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay, đó là:
Thứ nhất, khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân luôn gắn liền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; một mặt, vai trò, vị trí của nhân dân được khẳng định, ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước là cơ sở chính trị - pháp lý để thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; mặt khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là điều kiện quan trọng để xác lập vai trò, vị trí của nhân dân. Như vậy, phải đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở kế thừa, phát huy truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa dân tộc; đồng thời, tiếp thu, vận dụng tinh hoa văn hóa nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhiệm vụ của hệ thống chính trị là bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương. Dân chủ phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Hình thức thực hiện dân chủ cần tiếp tục được hoàn thiện và được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật. Phát huy mạnh mẽ dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể xã hội, cơ quan dân cử. Chú trọng việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm quyền dân chủ. Nguyên tắc cốt lõi trong việc bảo đảm thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là thực hiện đúng đắn, đầy đủ phương châm mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(13). Điều này phải trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước.
Thứ hai, mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” - một trong 10 mối quan hệ lớn mà Đại hội XIII của Đảng xác định, đặt ra yêu cầu phải nắm vững và giải quyết tốt cả về phương diện lý luận và thực tiễn, cần tiếp tục được cụ thể hóa, thể chế hóa cho phù hợp với tình hình mới. Trong nhận thức và xử lý hài hòa mối quan hệ này, cần nhấn mạnh và có cơ chế phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII cũng khẳng định việc phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội.
Thứ ba, Đại hội XIII của Đảng xác định phải tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(14); đặc biệt, phải tiếp tục bám sát thực tiễn, bảo đảm sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi, trong từng chính sách phát triển trên cơ sở phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, lấy nhân dân là trung tâm; bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao.
Thứ tư, nhận diện và khắc phục, vượt qua nguy cơ, thách thức xuất hiện ngay trong quá trình đổi mới và hội nhập toàn diện, sâu rộng của đất nước, đặc biệt là nguy cơ rạn nứt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nguy cơ suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân chỉ có thể phát huy trên cơ sở củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng; trong đó, muốn “dân là gốc”, “nước lấy dân làm gốc” thì “ý Đảng phải hợp với lòng dân”.
Quân y Biên phòng chăm sóc sức khỏe nhân dân (ảnh: Phan Tất Lành) _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân - Nền tảng của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
Trong giai đoạn sắp tới của đất nước ta, dự báo tình hình thế giới, khu vực và trong nước, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, sẽ còn không ít khó khăn, thách thức đan xen; những vấn đề phức tạp phát sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, của tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự suy giảm kinh tế toàn cầu tiếp tục tác động trực tiếp đến mục tiêu phát triển đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cùng với đó, các thế lực thù địch tăng cường tiến hành các thủ đoạn mới để chống phá, xuyên tạc chế độ, hòng gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; phủ nhận, công kích vai trò làm chủ, vị trí trung tâm của nhân dân trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Trong bối cảnh đó, cả hệ thống chính trị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và tập trung thực hiện thắng lợi đường lối, quan điểm, mục tiêu công tác dân vận của Đảng; khơi dậy và cổ vũ mạnh mẽ khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, góp phần phát huy cao độ vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước hết cần tập trung triển khai thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục khẳng định mạnh mẽ và bảo đảm yêu cầu “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; theo đó, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong khi, tính chất pháp quyền của Nhà nước thể hiện ở sự thống nhất của quyền lực nhà nước, với sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; thì tính chất “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” yêu cầu Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm đến lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Vì thế, cần nghiêm túc thực hiện việc tôn trọng, thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, bảo đảm hài hòa, vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ đổi mới toàn diện, triệt để và sâu sắc mọi mặt đời sống của đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được khẳng định chính thức và làm rõ. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(15).
Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tính chất, đặc điểm riêng có của nền kinh tế thị trường ở nước ta, mà mục tiêu của nó là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Bảo đảm hài hòa, vững chắc tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, chính là yêu cầu hàng đầu để phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu cần quan tâm xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sao cho vừa khơi thông mọi nguồn lực trong xã hội, huy động được sức mạnh tiềm tàng của người dân và doanh nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm mỗi người dân được thụ hưởng thành quả của phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Ba là, luôn lấy nhân dân làm trung tâm trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Quan điểm “dân là gốc”, nhân dân đóng vai trò chủ thể, ở vị trí trung tâm được thể hiện trước hết và trên hết trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, công tác hoạch định đường lối, chủ trương và thể chế hóa, xây dựng chính sách, pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhân dân vừa là đối tượng thực hiện, chấp hành chủ trương, chính sách, vừa là đối tượng thụ hưởng thành quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(16).
Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm mang lại phồn vinh cho đất nước và hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân là sứ mệnh cao cả của Đảng, là mục tiêu và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Quan điểm về vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân đòi hỏi không chỉ cụ thể hóa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm và kế hoạch hằng năm, mà còn thể hiện trong từng chủ trương, chính sách, thậm chí trong từng chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng ngành, lĩnh vực, địa phương.
Bốn là, tăng cường và đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của toàn hệ thống chính trị.
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Trong những năm qua, công tác dân vận của Đảng được quan tâm tăng cường, đổi mới toàn diện, có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng hơn, quyền làm chủ của nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất; vai trò của nhân dân trong tham gia, quyết định chính sách liên quan đến cuộc sống, những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước được phát huy; quyền con người, quyền công dân được đề cao. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, kế hoạch và thực hiện hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo được sự đồng thuận xã hội, nhân dân tin tưởng, đồng tình, ủng hộ quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, góp phần phát huy được sức mạnh của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cùng với sự phát triển của đất nước, giai đoạn hiện nay đang chứng kiến những thay đổi nhanh chóng trong cơ cấu xã hội. Bên cạnh tác động tích cực, những thay đổi này cũng làm nảy sinh một số vấn đề tiêu cực, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả công tác dân vận. Tình hình đó đòi hỏi tiếp tục tăng cường và đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác dân vận của cả hệ thống chính trị. Theo đó, xác định và thực hiện đúng quan điểm: Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang; trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phải thể hiện ở kết quả củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; kết quả tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy được sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Năm là, củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm thực chất, chặt chẽ, hiệu quả.
Là một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, sự nhận thức, phát triển nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân thể hiện tính nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng, quan điểm của Đảng được khẳng định qua văn kiện các kỳ đại hội, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, bồi đắp và ngày càng hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn triển khai. Hiến pháp năm 2013 cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng trong mối quan hệ với nhân dân tại Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp cũng quy định rõ tại Điều 2, Điều 3: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Đảng có sứ mệnh cao cả lãnh đạo nhân dân, song toàn bộ sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân; Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng luôn sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, sức mạnh của nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ, tối đa khi được một chính đảng thật sự cách mạng lãnh đạo; chỉ khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì mới có thể trở thành sức mạnh vô địch. Điều đó đã được chứng minh rõ nét qua thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 94 năm qua.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; “nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ” là bài học lịch sử quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc, được đúc kết trong toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng ta từ khi thành lập đến nay. Trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với thời cơ, vận hội và thách thức đan xen, cấp ủy, chính quyền và tổ chức đoàn thể, mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân - nền tảng của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi cá nhân cần vận dụng cụ thể, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả quan điểm này của Đảng để phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong hoạt động thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân./.
BÙI THỊ MINH HOÀI
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội
Theo Tạp chí Cộng sản
--------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 264
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 169
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 63
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502
(6) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 9
(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 38, 51
(9) Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy truyền thống đại đoàn kết, huy động sức mạnh của toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 973 (tháng 9-2021), tr. 6
(10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 21 - 22
(11), (12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 96 - 97, 36
(13), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 27, 119
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 128
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 28