Phát triển hạ tầng xanh đang là mối quan tâm hàng đầu của quốc gia, địa phương và các vùng, là xu hướng hiện đại nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhằm thúc đẩy quá trình này, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Tổng hội Xây dựng Việt Nam đã tổ chức hội thảo "Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững" để thảo luận và đề xuất các giải pháp, chính sách phù hợp.
Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học đã chia sẻ nhiều góc nhìn cũng như đưa ra các giải pháp chuyên sâu để phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững ở Việt Nam...
PGS-TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng, phát biểu tại Hội thảo "Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững", diễn ra sáng 6.6, tại Hà Nội.
Hạ tầng xanh và hướng đi tất yếu cho đô thị bền vững
Chia sẻ tại Hội thảo, PGS-TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng (Tổng hội Xây dựng Việt Nam), nhấn mạnh phát triển đô thị bền vững trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là nhu cầu cấp bách, cần sự chung tay của các cấp chính quyền và toàn xã hội.
PGS-TS. Lưu Đức Hải dẫn chứng, Việt Nam đang trong giai đoạn đô thị hóa nhanh. Tính đến tháng 12.2024 tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam là 44,3% với 900 đô thị nhưng quá trình này diễn ra với chất lượng chưa đồng đều, thiếu định hướng xanh và bền vững.
Nhiều đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM thường xuyên ngập úng khi mưa lớn do hệ thống thoát nước cũ kỹ, lạc hậu. Chẳng hạn, tại Hà Nội mưa vượt mức 70mm/giờ, thành phố sẽ xuất hiện thêm 19 điểm úng ngập.
Về hạ tầng giao thông, theo thống kê của Sở Giao thông Vận tải, Hà Nội có trên 8 triệu phương tiện đăng ký, gồm 1,1 triệu ôtô, hơn 6,7 triệu xe máy, 200.000 xe đạp điện, chưa kể 1,2 triệu phương tiện của tỉnh, thành phố khác lưu thông trên địa bàn. Trong khi đó, tỷ lệ đất dành cho giao thông của thành phố chỉ đạt 12-13% (theo quy hoạch, ít nhất phải đạt 20-26%), giao thông tĩnh chưa đạt 1% (theo quy hoạch, phải đạt 3-4%) và điều này gây áp lực về hệ thống hạ tầng giao thông đô thị.
Chưa hết, thống kê cho thấy Việt Nam đang thải ra môi trường khoảng 60.000 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày trong đó phần lớn là đến từ đô thị (60%). Hà Nội mỗi ngày phát sinh khoảng 7.000 tấn rác thải sinh hoạt, TP.HCM phát sinh trung bình 13.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt. Điều bất cập là gần 80% được xử lý bằng hình thức chôn lấp, chủ yếu là chôn lấp không hợp vệ sinh.
"Sự quá tải và ô nhiễm tại các đô thị lớn của Việt Nam hiện nay đặt ra nhu cầu tất yếu của việc hình thành và phát triển đô thị xanh, bền vững. Hệ thống hạ tầng xanh đóng góp phần không nhỏ vào việc phát triển đô thị bền vững", Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng nhận định.
PGS-TS. Lưu Đức Hải nhấn mạnh: "Trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với những thách thức đô thị hóa nhanh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và suy giảm không gian công cộng, yêu cầu chuyển đổi mô hình phát triển hạ tầng theo hướng xanh là tất yếu".
Cho rằng yêu cầu chuyển đổi mô hình phát triển hạ tầng theo hướng xanh là tất yếu, trong khi hiện trạng quy hoạch tại Việt Nam vẫn chủ yếu theo mô hình “đô thị cứng”, thiên về bê tông hóa, PGS-TS. Lưu Đức Hải đề xuất loạt giải pháp thiết thực. Theo đó, cần cải cách tư duy quy hoạch theo hướng hạ tầng sinh thái như tái cấu trúc đô thị dựa vào các trục xanh - hành lang sinh thái như sông, kênh, mương tự nhiên, chuyển đổi hệ thống cống kín thành kênh hở có cảnh quan. Cần quy định tỷ lệ không gian xanh trong mỗi đồ án quy hoạch, phân bố đều và có khả năng tiếp cận trong bán kính 500m cho mọi cư dân (số liệu đã công bố cho thấy diện tích cây xanh bình quân đầu người còn thấp, trong đó với Hà Nội chỉ đạt khoảng 2 m²/người, TP.HCM chỉ đạt 0,55 m²/người, thấp hơn rất nhiều so với mức khuyến nghị của WHO là ≥9 m²/người). Tái thiết kế không gian công cộng như công viên, vỉa hè, sân trường học theo hướng “hạ tầng linh hoạt - đa công năng”: thoát nước, giải nhiệt, sinh hoạt cộng đồng, hấp thụ CO₂.
Ông Hải cũng cho rằng cần ứng dụng giải pháp dựa vào tự nhiên, bởi hạ tầng xanh không thể chỉ dừng ở cây cối, mà phải vận dụng giải pháp sinh thái tích hợp, tận dụng chức năng tự nhiên của đất, nước, sinh vật để giảm chi phí và tăng hiệu quả. Chẳng hạn phát triển mô hình “thành phố bọt biển” tại các đô thị lớn, ưu tiên sân vườn sinh thái, vỉa hè thấm nước, vườn mưa, mái xanh. Áp dụng thiết kế phân tán nước mưa thay vì dồn vào các kênh lớn gây quá tải, nhờ vào hồ sinh thái, bãi lọc tự nhiên, mương cây xanh. Phục hồi sông, hồ đô thị bị lấn chiếm, trả lại vai trò điều tiết thủy văn và không gian xanh liên tục, giúp tăng tính chống chịu của hệ sinh thái đô thị...
Từ thực tế ngân sách công cho phát triển hạ tầng xanh còn hạn chế, theo ông Hải, để đổi mới mô hình đầu tư và tài chính xanh nhằm xanh hóa đô thị và các thành phần của hạ tầng đô thị cần thiết lập Quỹ phát triển hạ tầng xanh đô thị, phối hợp giữa ngân sách nhà nước và vốn tài trợ quốc tế (Green Climate Fund, WB, ADB). Tăng cường hợp tác công - tư (PPP) cho các dự án công viên, tuyến đường xanh, nhà vệ sinh sinh thái, hệ thống thoát nước tự nhiên. Áp dụng cơ chế ưu đãi thuế, miễn phí thuê đất cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng xanh, công trình xanh (LEED, LOTUS), sử dụng vật liệu tái chế, năng lượng mặt trời.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng cũng cho rằng cần xây dựng năng lực địa phương và sự tham gia của cộng đồng bởi thành công của hạ tầng xanh phụ thuộc vào năng lực thể chế và sự tham gia của cộng đồng. Vì vậy cần hỗ trợ các đô thị lập kế hoạch đầu tư hạ tầng xanh gắn với đặc điểm địa lý của địa phương, lồng ghép trong Chương trình phát triển đô thị. Phát triển các mô hình cộng đồng xanh hóa đô thị...
Ở tầm vĩ mô, PGS-TS. Lưu Đức Hải đề xuất xây dựng chiến lược quốc gia về hạ tầng xanh. Theo ông Hải, Việt Nam hiện đã có một số văn bản như Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24.1.2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tuy nhiên còn thiếu một chiến lược quốc gia riêng biệt, đồng bộ về phát triển hạ tầng xanh đô thị. "Cần ban hành Chiến lược hạ tầng xanh quốc gia đến 2045, tích hợp với quy hoạch vùng và quy hoạch đô thị, lồng ghép trong Luật Quy hoạch, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Xây dựng và Luật Bảo vệ môi trường. Thiết lập bộ tiêu chí đánh giá hạ tầng xanh, các thành phần của hạ tầng xanh, đánh giá đô thị xanh… Xây dựng bản đồ khu vực ưu tiên đầu tư hạ tầng xanh, dựa trên nguy cơ ngập, ô nhiễm, thiếu không gian xanh và các khu dân cư dễ bị tổn thương", Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng, nêu ý kiến.
Phục hồi các con sông nội đô
Đề cập đến việc phục hồi dòng chảy sinh thái các sông thoát nước nội đô nhằm góp phần phát triển đô thị bền vững trong quy hoạch đô thị tại Việt Nam, GS-TS. Trần Đức Hạ, Giảng viên trường Đại học Xây dựng Hà Nội, cho biết các sông nội đô (Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét) gắn liền với lịch sử phát triển trên 1.000 năm của Hà Nội, có ý nghĩa lớn về văn hóa, lịch sử và tâm linh của Thủ đô. Tuy nhiên, sự phát triển đô thị đã làm cho nước bị ô nhiễm nặng, khả năng tiêu thoát nước mưa của các sông giảm sút. Nguồn bổ cập nước chính cho sông vẫn là nước thải về mùa khô và nước mưa về mùa mưa cộng với dòng chảy nhỏ và tiếp nhận tải lượng lớn các chất ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng… nên chất lượng nước sông ngày càng giảm.
GS-TS. Trần Đức Hạ, Giảng viên trường Đại học Xây dựng Hà Nội.
Các nghiên cứu của Trung tâm Quan trắc môi trường Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, Viện Khoa học và Kỹ thuật môi trường, Công ty TNHH Thoát nước Hà Nội,… cho thấy toàn bộ dòng chảy sông từ Bưởi đến Thanh Liệt trong trạng thái ô nhiễm nặng, oxy hòa tan hầu như không có, nước sông màu đen và bốc mùi nặng về mùa khô. Ngoài ra khả năng điều tiết và vận chuyển nước sông cũng bị hạn chế do bùn cặn lắng đọng và chướng ngại vật trên sông. Tình trạng suy thoái và ô nhiễm nước các sông Kim Ngưu, Sét và Lừ cũng tương tự như sông Tô Lịch.
Theo GS-TS. Trần Đức Hạ quản lý môi trường cũng như quản lý tài nguyên nước trên lưu vực này, trong đó có quản lý vận hành các công trình đập thanh Liệt, trạm bơm Yên Sở, các đập điều tiết trên các sông… cần phải quản lý thống nhất trên cơ sở sự phục hồi lại dòng chảy của sông Tô Lịch và các sông nội đô khác với chất lượng nước được cải thiện. "Các sông hồ thoát nước nội đô phải tạo nên được hệ thống hạ tầng thoát nước xanh cho thành phố. Sông phải đảm bảo dòng chảy tự nhiên về mùa khô; thể tích chứa nước lớn để tiêu thoát nước mưa; và có khả năng tự làm sạch cao để chất lượng nước đáp ứng quy chuẩn môi trường cũng như tạo điều kiện phát triển các công trình văn hóa, vui chơi, giải trí trên sông”, GS-TS. Trần Đức Hạ nhận định.
Về giải pháp phục hồi dòng chảy sinh thái các sông nội đô này, ông Hạ cho rằng cần dựa vào các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch xây dựng chung, quy hoạch thoát nước… để xây dựng các kế hoạch phục hồi dòng chảy các sông nội đô cho hợp lý. Trong đó sông Tô Lịch đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các sông nội đô thành phố Hà Nội và quan hệ mật thiết về mặt thủy lực, thủy văn với sông Nhuệ và hồ Tây nên ưu tiên số một là phục hồi dòng chảy cho sông Tô Lịch. Các tiến trình tiếp theo là sông Lừ, sông Kim Ngưu và sông Sét.
Trong khi đó, ThS. Nguyễn Việt Dũng và ThS. Vương Thu Hoài (Viện Quy hoạch môi trường, Hạ tầng kỹ thuật đô thị và nông thôn) có tham luận về việc tích hợp mô hình nông nghiệp đô thị với thoát nước bền vững và hạ tầng xanh. Hai chuyên gia cho rằng trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra với các hiện tượng cực đoan (mưa lớn, bão…) dòng chảy bề mặt tại đô thị có thể dẫn đến lũ lụt, ngập úng. Đô thị hóa, bê tông hóa làm tăng dòng chảy bề mặt do tạo ra nhiều các bề mặt không thấm nước như vỉa hè, các tòa nhà, hệ thống đường, dòng chảy nước mưa trực tiếp vào cống, mương, ao hồ nguồn tiếp nhân cuối còn gây ra hiện tượng xói mòn và bồi lắng.
Ngoài ra trong quá trình sản xuất và hoạt động của con người, các chất ô nhiễm dễ dàng theo dòng chảy bề mặt tới các nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm làm thay đổi các tính chất hóa học của nước và cả hệ thống chu trình nước bị ảnh hưởng, đó cũng là lý do vì sao chất lượng nước mưa đô thị cũng là một vấn đề lớn cần giải quyết.
Hệ thống thoát nước truyền thống thường được thiết kế để tiêu thoát nhanh nhất. Chi phí cho xây dựng và vận hành, bảo dưỡng các đường cống thoát nước thường rất lớn, trong khi công suất của chúng lại chỉ có giới hạn và không dễ nâng cấp. Cách làm này dẫn đến nguy cơ ngập lụt, xói mòn và ô nhiễm ở các khu vực hạ lưu tăng. Trái lại, hệ thống thoát nước đô thị bền vững (Sustainable Urban Drainage Systems – SUDS) là hệ thống thoát nước hoạt động dựa trên việc tận dụng chức năng của hê sinh thái tự nhiên nhằm xây dựng hệ thống thoát nước với một nguyên lý khác so với các nguyên lý thoát nước mưa truyền thống. Đó là thay vì làm thế nào để thoát nhanh nước mưa ra khỏi đô thị bằng các hệ thống kênh thẳng, cống ngầm, cống hộp thì SUDS làm chậm lại các quá trình nêu trên và đưa nước mưa phục vụ cộng đồng với những giải pháp kỹ thuật mà trong đó sử dụng triệt để các khả năng lưu giữ và làm sạch của hệ sinh thái tự nhiên vào việc cải thiện chất lượng nước, bổ cập nguồn nước ngầm cộng với việc làm hài hòa cảnh quan thiên nhiên; trong đó, xử lý ô nhiễm do nguồn thải phân tán và chống ngập là những vấn đề chủ yếu và cấp bách.
Các giải pháp thoát nước bền vững thường được lồng ghép trong quy hoạch và thiết kế của hạ tầng xanh, không gian xanh trong đô thị. Ở nhiều đô thị của Việt Nam, xu hướng tự trồng rau tại nhà (sân thượng, ban công, vườn) đang trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Do đó, đây chính là yếu tố tiềm năng và vô cùng quan trọng trong việc kết hợp giữa mô hình nông nghiệp đô thị với hệ thống thoát nước bền vững để hạn chế được thách thức nêu trên khi áp dụng SUDS. Cách tiếp cận này rất phù hợp để áp dụng cho cấp độ quản lý tại nguồn và khu vực. Chính vì vậy, giải pháp SUDS được áp dụng vào các công trình nhằm thu gom nước mưa phục vụ cho nông nghiệp đô thị và giảm tải cho hệ thống thoát nước chung của đô thị gián tiếp giảm thiểu rủi ro ngập lụt...
Công nghệ định hình các đô thị thông minh
Bàn luận về tiêu chí giao thông xanh và chỉ tiêu đánh giá hệ thống giao thông trong quy hoạch đô thị, TS. Thân Đình Vinh, Trưởng Bộ môn Giao thông (Khoa Đô thị, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội), cho rằng tiêu chí đánh giá giao thông xanh tại Việt Nam đã bước đầu được nghiên cứu, tổng hợp và đã được đưa vào văn bản pháp luật tại Thông tư 01/2018/TT-BXD quy định về chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh. Tuy vậy, đây mới là đô thị tăng trưởng xanh chứ chưa phải là đô thị xanh. Trong các văn bản pháp lý từ trước năm 2000 đã có những tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá quy hoạch hệ thống giao thông, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu phát triển thì cần điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới.
TS. Thân Đình Vinh, Trưởng Bộ môn Giao thông, Khoa Đô thị, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội, chia sẻ tại Hội thảo.
Theo ông Vinh trong lĩnh vực quy hoạch giao thông hiện nay trong quy chuẩn quy hoạch hiện hành đánh giá qua 2 chỉ tiêu: Mật độ mạng lưới đường đô thị, mật độ diện tích đường mà chưa đưa vào quy định đánh giá 2 chỉ tiêu theo nhiều nghiên cứu các nhà khoa học là hệ số không thẳng của đường đô thị, diện tích đất giao thông trên người dân đô thị. Hơn nữa quy định mới chỉ áp dụng cho đô thị loại đặc biệt và loại I mà chưa có chỉ tiêu cụ thể cho các đô thị loại thấp hơn.
Hiện trạng các đô thị lớn loại đặc biệt như Hà Nội, TP.HCM hàng năm thu hút nhiều lao động đến, tăng tỷ lệ đô thị hóa nhanh và nhu cầu nhà ở phát triển, đất xây dựng tăng, nhưng hạ tầng đô thị chưa được đầu tư kịp với tốc đô đô thị hóa, đặc biệt hạ tầng giao thông, dẫn đến ùn tắc giao thông là vẫn đề nan giải để giải quyết các đô thị này. So sánh với các cấp đô thị hiện nay ở cả nước, các đô thị loại đặc biệt, loại I có mật độ đường chính giao thông thấp hơn nhiều so với quy chuẩn.
Ông Vinh cho rằng cần phải ban hành văn bản pháp luật quy định tiêu chí giao thông xanh. Hơn nữa hiện nay để cụ thể một số tiêu chí giao thông xanh thành chỉ tiêu thì cần rất nhiều nguồn lực để thực hiện và đòi hỏi có thêm nhiều nghiên cứu chuyên sâu. Hệ thống văn bản pháp luật đánh giá hệ thống giao thông trong quy hoạch tại Việt Nam đã có tuy nhiên qua từng thời kỳ các chỉ tiêu này có sự thay đổi cả về giá trị và số lượng chỉ tiêu đánh giá.
“Tiêu chí, chỉ tiêu là nội dung quan trọng dùng để đánh giá khi lập quy hoạch đô thị. Cần phải xác định rõ bộ tiêu chí, cụ thể hóa tiêu chí thành chỉ tiêu để có thước đo đánh giá trong quá trình lập, thẩm định, thực hiện quy hoạch. Giao thông xanh là mục tiêu hướng đến của nhiều nước trong xây dựng và phát triển đô thị. Để đạt được giao thông xanh thì cần nhiều yếu tố trong đó có việc xác định được các tiêu chí và chỉ tiêu giao thông xanh”, ông Vinh nhận định.
TS. Hán Minh Cường, Công ty CP tập đoàn SGroup Việt Nam, trình bày về việc ứng dụng IoT và AI trong quản lý hạ tầng xanh đô thị hướng đến phát triển bền vững.
Từ góc độ doanh nghiệp, TS. Hán Minh Cường, Công ty CP tập đoàn SGroup Việt Nam, khẳng định IoT (Internet vạn vật) và AI (trí tuệ nhân tạo) là hai công nghệ trụ cột định hình các đô thị thông minh trong việc khai thác dữ liệu đô thị và hỗ trợ ra quyết định, từ đó nâng cao năng lực quy hoạch và quản lý hạ tầng xanh. Theo ông Cường, IoT cho phép giám sát môi trường theo thời gian thực (chất lượng không khí, mực nước, độ ẩm đất), trong khi AI xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ để phát hiện xu hướng, mô hình, và hỗ trợ quy hoạch, quản lý động các hệ thống xanh (dự báo nhu cầu tưới tiêu, cảnh báo ô nhiễm).
Khẳng định Hội thảo đã góp phần quan trọng trong việc định hướng phát triển hạ tầng xanh, ThS-KTS. Đoàn Đức Phi, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn VNC cho rằng không thể tách rời giữa "xanh" và "thông minh" trong xu hướng phát triển đô thị hiện nay. Từ đó, ông Phi kiến nghị bổ sung hai lĩnh vực công nghệ thông tin và Hệ thống thông tin địa lý (GIS) vào các buổi hội thảo trong thời gian tới, vì GIS được xem là nền tảng tích hợp hữu hiệu nhất cho việc quản lý hạ tầng và đã được Bộ Xây dựng đưa vào các nghị định và quy định pháp luật. Việc số hóa và đưa các hệ thống nền tảng lên GIS sẽ giúp việc nghiên cứu trở nên tổng thể, trực quan và thực tiễn hơn.
Trong khi đó KTS. Lê Trung Kiên, Phó Giám đốc Xí nghiệp Quản lý điện chiếu sáng Công ty Hapulico, đề xuất hoàn thiện công tác quản lý chính sách chiếu sáng theo hướng xanh, thông minh và hiện đại cho Thủ đô Hà Nội thông qua ba nhóm giải pháp: hoàn thiện cơ chế, chính sách và phân cấp quản lý; ứng dụng thiết bị và công nghệ tiên tiến tiết kiệm năng lượng; và nâng cao năng lực tổ chức quản lý vận hành. Trong đó, sử dụng đèn LED hiệu suất cao, ứng dụng công nghệ điều khiển thông minh, tích hợp quản lý dữ liệu và vận hành từ xa qua nền tảng IoT.
Để phù hợp với chủ trương xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, theo ông Kiên mô hình phân cấp cần được định hướng cụ thể. Trong đó, khu vực nội thành: quản lý tập trung toàn bộ hệ thống chiếu sáng công cộng (đường phố và ngõ ngách), chịu trách nhiệm duy tu, duy trì, vận hành sau đầu tư để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất. Được phân cấp đầu tư hệ thống chiếu sáng tại ngõ ngách và các tuyến đường phố trong trường hợp triển khai đồng bộ dự án cải tạo hạ tầng, sau đó bàn giao lại cho Thành phố quản lý lâu dài. Trong khi đó, với khu vực ngoại thành, cần đầu tư và quản lý sau đầu tư đối với hệ thống chiếu sáng trên các trục giao thông chính (quốc lộ, tỉnh lộ, đường hướng tâm). Được phân cấp toàn diện (đầu tư, duy tu, duy trì, vận hành) đối với các hệ thống chiếu sáng còn lại trên địa bàn (ngõ ngách, đường nhánh trong khu dân cư).
Các đại biểu chụp hình lưu niệm.
Tiếp lời KS. Lê Trung Kiên (Công ty Hapulico), PGS-TS. Nguyễn Hồng Tiến, Chủ tịch Hội Chiếu sáng Việt Nam, cho biết Hội Chiếu sáng Việt Nam hàng năm cũng tổ chức nhiều hội thảo chuyên sâu về chiếu sáng. Quan điểm của Hội là hệ thống chiếu sáng công cộng cần được quản lý như một công trình hạ tầng kỹ thuật thống nhất, liên thông, đồng bộ, không nên chia cắt theo địa giới hành chính. Đặc biệt, đối với Hà Nội, Hội Chiếu sáng Việt Nam đã gửi văn bản kiến nghị riêng đến Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phương thức quản lý hệ thống chiếu sáng một cách hợp lý, tránh phân tán.
Chủ tịch Hội Chiếu sáng Việt Nam cũng nhận định Hội thảo đã bao quát toàn diện các lĩnh vực từ giao thông xanh, thoát nước xanh, cấp nước xanh đến nghĩa trang xanh; các nội dung đều đi đúng hướng, xác định rõ vai trò, định hướng, giải pháp và các chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá về hạ tầng xanh nói chung. “Tôi cho rằng đây là một hội thảo vô cùng bổ ích và có ý nghĩa, cần được nhân rộng và các kiến nghị cần được đưa vào các văn bản quy phạm pháp luật để thúc đẩy phát triển bền vững” ông Tiến nói.
Tại hội thảo, nhiều nhà khoa học, chuyên gia cũng đã tham gia thảo luận và có ý kiến chuyên sâu về các nội dung phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững như các vấn đề: Công viên xanh là một thành tố của hạ tầng xanh trong quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam (TS-KTS. Lê Thị Bích Thuận); Quy hoạch công viên nghĩa trang khu vực ven đô Hà Nội hướng tới xây dựng đô thị bền vững (Ban Phục vụ lễ tang Hà Nội); Kinh tế tuần hoàn trong hoạt động thu gom, tái chế chất thải hướng tới đô thị xanh, bền vững (Công ty Môi trường đô thị Hà Nội - URENCO); Hạ tầng cấp nước xanh trong thời kỳ đổi mới đất nước - Thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững (KS. Nguyễn Văn Nam); Chiếu sáng xanh “Green lighting” để phát triển đô thị xanh, bền vững (PGS-TS. Nguyễn Hồng Tiến); Quản lý chất thải rắn xanh góp phần đồng bộ hệ thống hạ tầng xanh trong đô thị (ThS. Nguyễn Xuân Đức); Thắp sáng tương lai xanh: Hệ thống chiếu sáng vì môi trường (KS. Nguyễn Thanh Hoa); Sự tham gia của công đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị vì mục tiêu phát triển hạ tầng xanh bền vững (KS. Trần Văn Hành)...
Trà My lược thuật - Ảnh: BTC