Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Như Hạnh:
Cải thiện chất lượng môi trường biển đảo, tạo nền tảng phát triển kinh tế biển bền vững
Trong bối cảnh phát triển kinh tế biển mạnh mẽ, Quảng Ninh đã xác định việc bảo vệ môi trường biển đảo là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa sống còn trong quá trình phát triển bền vững. Tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, thực tiễn và bước đầu thu được kết quả rõ rệt.
Một trong những giải pháp mang tính đột phá là chuyển đổi vật liệu nổi trong nuôi trồng thủy sản. Trước thực trạng phao xốp bị sóng gió làm vỡ vụn, phát tán ra môi trường biển, gây ô nhiễm nghiêm trọng, Quảng Ninh đã ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương, yêu cầu bắt buộc sử dụng phao nhựa HDPE thay thế hoàn toàn. Song song với chuyển đổi vật liệu, tỉnh cũng chú trọng giải quyết hậu quả từ các nguồn ô nhiễm sẵn có. Hàng triệu quả phao xốp cũ sau thu hồi đã được xử lý tái chế thông qua mô hình kinh tế tuần hoàn, sử dụng làm nguyên liệu sản xuất xi măng hoặc chế biến lại thành hạt nhựa tại các cơ sở có năng lực được cấp có thẩm quyền cho phép.
Về không gian sinh thái, Quảng Ninh đã đi đầu trong việc quy hoạch không gian biển đảo và phân vùng bảo tồn, tích hợp vào quy hoạch tỉnh. Những vùng biển có hệ sinh thái nhạy cảm, như Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Bái Tử Long, khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, đất ngập nước Đồng Rui được quy hoạch bảo vệ chặt chẽ.
Một giải pháp mang tính sinh thái lâu dài là trồng mới, phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn. Trong giai đoạn 2000 - 2023, tỉnh đã trồng mới và phục hồi hơn 1.290 ha rừng ngập mặn, trong đó có gần 240 ha trồng mới, và hơn 1.000 ha phục hồi các khu rừng suy thoái, cải tạo bãi triều.
Trên phương diện chính sách, Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 10- NQ/TU (2022) về tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Song hành là Chỉ thị số 18- CT/TU (2017) nhằm tăng cường quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Không chỉ dừng lại ở chính sách và hạ tầng, tỉnh còn thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp vào công tác bảo vệ môi trường biển đảo. Các phong trào, như “Tuyến đường không rác thải nhựa”, “Ngày Chủ nhật xanh”, “Hạn chế đồ nhựa dùng một lần trên đảo” đã lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư ven biển và các xã đảo như Cô Tô, Vân Đồn. Tỉnh cũng khuyến khích mô hình du lịch sinh thái, du lịch không rác nhựa, tạo điểm nhấn văn hóa và sinh thái tại các địa bàn nhạy cảm về môi trường...
Nhìn tổng thể, các giải pháp nêu trên cho thấy, Quảng Ninh không chỉ giải quyết vấn đề môi trường ở góc độ kỹ thuật - công nghệ, mà còn tiếp cận toàn diện từ thể chế, chính sách, giáo dục - truyền thông đến phục hồi sinh thái và huy động cộng đồng. Những kết quả đạt được đã góp phần cải thiện chất lượng môi trường biển đảo, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế biển bền vững, hài hòa giữa lợi ích môi trường và sinh kế lâu dài của người dân.
Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư Nhữ Văn Cẩn:
Tiềm năng tuần hoàn chất thải từ nuôi biển công nghiệp và chế biến thủy sản
Tại Việt Nam, theo thống kê, với tổng công suất thiết kế khoảng 3 triệu tấn sản phẩm/năm, tạo ra khoảng 1,3 triệu tấn phụ phẩm mỗi năm. Tuy nhiên, mới chỉ 30% lượng phụ phẩm được thu gom và tái chế thành sản phẩm giá trị cao. Phần phụ phẩm còn lại, nếu không được xử lý đúng cách, gây lãng phí tài nguyên và tạo áp lực ô nhiễm môi trường đáng kể.
Với quy mô nuôi biển và chế biến ngày càng lớn, Việt Nam sở hữu nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển ngành công nghiệp tái chế - chế biến sâu. Các hướng đi chính bao gồm: sản xuất bột cá và dầu cá, đây là nguyên liệu quan trọng trong sản xuất thức ăn gia súc, thủy sản, góp phần giảm lệ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu; ứng dụng công nghệ để chiết xuất các hợp chất có giá trị cao như chitosan, chitin từ vỏ tôm, ghẹ, cua; sản xuất phân bón hữu cơ sinh học từ phụ phẩm được lên men kết hợp với vi sinh vật…
Nếu tận dụng hiệu quả 100% lượng phụ phẩm thủy sản, tổng giá trị kinh tế có thể đạt hàng tỷ USD mỗi năm, đồng thời giảm thất thoát tài nguyên, giảm ô nhiễm nước và hạn chế hiện tượng tảo nở hoa. Việc tái sử dụng phụ phẩm còn góp phần nâng cao giá trị chuỗi sản xuất, thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ, tạo việc làm và hỗ trợ mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và phát thải ròng “bằng 0”.
Để phát triển kinh tế tuần hoàn trong nuôi biển và chế biến thủy sản, đề nghị Đoàn giám sát của Quốc hội xem xét kiến nghị, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ. Cụ thể là ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về quản lý và chế biến phụ phẩm/chất thải thủy sản theo hướng sản phẩm giá trị cao; tiêu chuẩn về môi trường trong nuôi biển công nghiệp; ưu đãi thuế, tín dụng cho các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi biển công nghệ cao, tuần hoàn, công nghệ chế biến sâu, công nghệ sinh học để tạo ra sản phẩm tuần hoàn từ chất thải (như sản xuất collagen, chitin, chế phẩm sinh học).
Xây dựng trung tâm thu gom - tái chế vật liệu nuôi biển tại các vùng trọng điểm; khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chế biến phụ phẩm thủy sản tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học (lên men, thủy phân enzyme); xây dựng các khu chế biến phụ phẩm tập trung gắn liền với các vùng chế biến thủy sản lớn, bảo đảm quy mô và hiệu quả kinh tế.
Phó Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ năng lượng và môi trường Nguyễn Văn Quân:
Ba trụ cột chiến lược phát triển khoa học biển
Từ kết quả phân tích các xu hướng nghiên cứu biển trên thế giới cho thấy, các giải pháp công nghệ cao và chiến lược kinh tế biển xanh là con đường bắt buộc để duy trì sự phát triển bền vững. Hải Phòng, với vai trò là trung tâm kinh tế biển và logistics quan trọng của quốc gia, đang đứng trước cơ hội lớn để tận dụng các đột phá này nhằm giải quyết đồng thời các thách thức về môi trường và cạnh tranh quốc tế.
Các định hướng chiến lược then chốt cho phát triển khoa học biển của Hải Phòng bao gồm việc nhanh chóng thiết lập hệ thống giám sát môi trường biển thông minh (SMES) dựa trên AI và viễn thám, nhằm quản lý và cảnh báo sớm nguy cơ ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp và hàng hải. Song song đó, thành phố cần đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế biển hướng tới Net Zero, tập trung vào phát triển cảng xanh - cảng thông minh thông qua logistics số và tích hợp năng lượng gió ngoài khơi...
Để hiện thực hóa các mục tiêu này, cần có sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn xã hội, đặc biệt là sự hợp tác liên ngành chặt chẽ giữa chính quyền, cộng đồng khoa học (ISTEE, VMU, RIMF) và khối doanh nghiệp. Việc coi thập kỷ khoa học đại dương của Liên Hợp Quốc là kim chỉ nam chiến lược sẽ giúp Hải Phòng không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế mà còn mở ra cơ hội huy động nguồn lực và chuyển giao công nghệ, biến các thách thức môi trường hiện tại thành cơ hội phát triển đột phá, củng cố vị thế là một thành phố cảng biển hiện đại và bền vững.
Thanh Chi ghi