Năm 2024, mặc dù kinh tế đối mặt nhiều thách thức do nhiều nguyên nhân, nhưng với nỗ lực quyết tâm cao của tỉnh, lĩnh vực kinh tế - xã hội đạt được những kết quả đáng ghi nhận. GRDP ước tính tăng 5,97% so với năm 2023, tăng trưởng đồng đều ở các khu vực: nông, lâm, thủy sản 3,37%, công nghiệp, xây dựng 6,12%, dịch vụ 7,04%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Quy mô nền kinh tế của tỉnh đạt 53,508 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 82 triệu đồng, tăng 9,14% so với năm trước.
Đầu tư và phát triển doanh nghiệp luôn là ưu tiên hàng đầu và nguồn lực then chốt trong chính sách kinh tế của tỉnh. Đặc biệt, kinh tế tư nhân được xem là động lực quan trọng, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế tỉnh. Trong năm 2024, đã có 364 doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đạt 3.171 tỉ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh lên 3.401 đơn vị.
Bức tranh chung cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang dần phục hồi và tăng trưởng với lợi nhuận năm sau có xu hướng cao hơn năm trước, góp phần thúc đẩy nhiều doanh nghiệp mới đăng ký thành lập. Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng một số doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động do ảnh hưởng của việc đứt gãy chuỗi cung ứng theo đơn hàng. Điều này đã tác động đến vấn đề lao động, việc làm cũng như việc chi trả tiền lương và các chế độ, chính sách liên quan tại các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến quan hệ lao động.
Trong năm 2024, tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 14.700 lượt lao động, vượt 18% so với kế hoạch đề ra. Cơ cấu việc làm được tạo ra khá đa dạng, bao gồm 6.299 lao động làm việc trong tỉnh, 5.367 lao động làm việc ngoài tỉnh và 3.000 lao động làm việc ở nước ngoài, tập trung chủ yếu ở các thị trường như Đài Loan (1.167 người), Nhật Bản (1.427 người) và Hàn Quốc (382 người). Với tổng dân số toàn tỉnh năm 2024 là 659.214 người và lực lượng lao động là 336.890 người, số lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp ước tính khoảng 55.000 người.
Thực tế cho thấy, các cấp, ngành, cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp và tổ chức sử dụng lao động ngày càng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quan hệ lao động. Đặc biệt, ý thức chấp hành pháp luật lao động và coi trọng các chế độ, chính sách cho người lao động từ phía người sử dụng lao động có sự chuyển biến rõ nét, đó là không chỉ chú trọng đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến yếu tố con người, tạo nền tảng vững chắc cho một môi trường lao động ổn định và phát triển bền vững. Việc tuân thủ pháp luật và thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro pháp lý mà còn góp phần xây dựng lòng tin và sự gắn kết của người lao động với doanh nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình trạng trốn, chậm đóng BHXH của một số doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, đồng thời tỉ lệ vi phạm pháp luật lao động trong quản lý, hợp đồng, nội quy, thỏa ước và an toàn lao động sau thanh tra còn cao. Số lượng doanh nghiệp có tổ chức công đoàn và đoàn viên còn thấp, kéo theo việc ít doanh nghiệp thực hiện đăng ký nội quy, thương lượng và gửi thỏa ước lao động tập thể. Đặc biệt, công đoàn cơ sở tại khu vực ngoài nhà nước chưa phát huy hiệu quả vai trò bảo vệ người lao động, trong khi đội ngũ hòa giải viên lao động lại thiếu kinh nghiệm thực tế, đòi hỏi cần được đào tạo nghiệp vụ để giải quyết các tranh chấp lao động.
Từ thực tiễn đó, Đề án được ban hành nhằm tăng cường quản lý nhà nước về lao động, thúc đẩy đối thoại, thương lượng, cân bằng lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giảm thiểu tranh chấp, đình công trái pháp luật, bảo vệ quyền lợi các bên, đảm bảo môi trường đầu tư, kinh doanh ổn định và giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Để triển khai hiệu quả các mục tiêu đề ra của Đề án, các cấp, ngành, đơn vị cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa thông qua quán triệt Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong tình hình mới.
Qua đó nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ gắn với ổn định chính trị, xã hội, môi trường kinh doanh. Từ đó thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước bằng cách kiện toàn bộ máy, tăng cường tuyên truyền pháp luật, quản lý và hỗ trợ tổ chức đại diện người lao động, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra. Thúc đẩy đối thoại, thương lượng tập thể và dân chủ cơ sở bằng cách nâng cao kỹ năng cho các bên, khuyến khích ký kết thỏa ước tập thể các cấp và giải quyết tranh chấp hiệu quả.
Nâng cao năng lực thiết chế hòa giải, giải quyết tranh chấp thông qua kiện toàn đội ngũ, nâng cao hiệu quả hoạt động, thiết lập đầu mối và phối hợp bảo đảm an ninh trật tự, ứng dụng công nghệ thông tin. Phát huy hiệu quả hoạt động công đoàn bằng cách đổi mới, tăng cường vai trò, đào tạo cán bộ, tuyên truyền pháp luật, phát triển đoàn viên, đổi mới phương thức hoạt động, tập huấn kỹ năng đối thoại, giám sát thực hiện chính sách và chăm lo đời sống người lao động. Triển khai chính sách phúc lợi cho người lao động về nhà ở, công trình xã hội, thiết chế công đoàn để cải thiện đời sống và xây dựng quan hệ lao động hài hòa.
Bảo Bình