Các chuyên gia nhận định, Quốc hội và Chính phủ đã thể hiện quyết tâm thực thi Nghị quyết 68 thông qua ban hành Nghị quyết số 198/2024/QH15 và Nghị quyết số 138/NQ-CP, với hàng loạt chính sách cụ thể nhằm hoàn thiện thể chế và cơ chế huy động nguồn lực cho kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, thực tế doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt khu vực tư nhân, vẫn phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng. Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng tín dụng đạt 8,3% so với đầu năm và 18,87% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phục hồi nhưng còn quá nhỏ.
Đáng chú ý, 83% giá trị phát hành TPDN trong nửa đầu năm 2025 vẫn do các ngân hàng thương mại huy động, trong khi doanh nghiệp phi tài chính – nhóm đối tượng cũng có nhu cầu vốn trung và dài hạn lớn – chưa khai thác hiệu quả kênh này. Điều này tiếp tục tạo áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng và cho thấy vai trò của thị trường vốn nợ trong cung ứng vốn dài hạn cho khu vực tư nhân còn hạn chế.
Quang cảnh tọa đàm
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Phó Chủ tịch FiinRatings, Tổng Thư ký VBMA cho rằng, hiện quy mô thị trường TPDN của Việt Nam mới đạt khoảng 1,25 triệu tỷ đồng, tương đương 10,8% GDP năm 2024 – còn cách xa mục tiêu 25% GDP vào năm 2030.
Trong khi đó, tỷ lệ này tại nhiều nền kinh tế phát triển ở châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia dao động từ 30–40% GDP, thậm chí vượt 100% tại Mỹ và Nhật Bản.
Theo ông Quỳnh, để thị trường TPDN nói riêng và thị trường vốn nợ nói chung thực sự đóng vai trò động lực tăng trưởng, Việt Nam cần giải quyết các điểm nghẽn: cơ sở nhà đầu tư còn hạn chế, chất lượng hàng hóa chưa đồng đều, thiếu cơ chế hiệu quả về bảo lãnh tín dụng và xếp hạng tín nhiệm, cùng hạ tầng thông tin – giao dịch – giám sát chưa hoàn thiện.
ông Quỳnh đề xuất cần có các giải pháp đồng bộ, tập trung ba trụ cột: Hoàn thiện chính sách; tăng cường minh bạch; đa dạng hóa mô hình và công cụ vốn".
Cũng theo ông Quỳnh, bên cạnh sản phẩm truyền thống, cần phát triển thêm các quỹ đầu tư và mô hình bảo lãnh tín dụng – như CGIF đang thực hiện – để hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là khối tư nhân, tiếp cận thị trường hiệu quả hơn. Đây cũng là cách để giảm chi phí vốn và mở rộng tệp nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Về định hướng phát triển thị trường vốn, ông Bùi Hoàng Hải, Phó Chủ tịch Ủy Ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), chia sẻ, Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trong năm 2025 và hướng tới hai con số trong giai đoạn 2026–2030. Chính phủ xác định kinh tế tư nhân là động lực phát triển quan trọng, được nhấn mạnh trong các nghị quyết của trung ương và quốc hội.
Các chính sách hỗ trợ đang được triển khai bao gồm cải cách hành chính, chuyển đổi số, tạo điều kiện tiếp cận vốn, đặc biệt qua kênh TPDN.
Với định hướng phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán, UBCKNN đang thực hiện loạt giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường vốn minh bạch, hiệu quả.
Trong đó, TPDN là trọng tâm chính sách với các định hướng cụ thể là phát triển minh bạch, đa dạng sản phẩm, bảo vệ nhà đầu tư; Mở rộng nhà đầu tư tổ chức dài hạn, điều chỉnh quy định phân bổ tài sản; Khuyến khích phát hành trái phiếu xanh, trái phiếu gắn với dự án đầu tư ưu tiên; Hoàn thiện khung pháp lý, cả với chào bán riêng lẻ và ra công chúng; Tăng cường xếp hạng tín nhiệm và khuyến khích bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao độ tin cậy thị trường.
“Thị trường vốn nợ Việt Nam, trong đó có thị trường TPDN còn nhiều dư địa để phát triển. Tuy nhiên, để vận hành hiệu quả cần có sự chung tay của toàn bộ các thành viên" ông Hải nhấn mạnh.
Cụ thể, ông Hải phân tích, đối với công ty đại chúng, cần nâng cao quản trị doanh nghiệp, minh bạch và trách nhiệm với cổ đông, nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư, cần đầu tư chuyên nghiệp, có chiến lược dài hạn, đánh giá rủi ro – lợi ích một cách đầy đủ. Đối với các định chế trung gian, nâng cao năng lực tư vấn, phân phối và giám sát; đảm bảo hoạt động trung gian minh bạch và chuyên nghiệp.
Còn đối với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, tổ chức bảo lãnh trái phiếu: tiếp tục phát triển dịch vụ chất lượng cao, tạo niềm tin cho thị trường.
NHUNG NGUYỄN