Chiều ngày 29/12, tham luận tại Hội nghị tổng kết năm 2025, triển khai nhiệm vụ năm 2026, Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội Nguyễn Trọng Kỳ Anh cho biết, quy hoạch tổng thể Thủ đô Hà Nội tầm nhìn 100 năm sẽ tập trung vào bốn định hướng chiến lược cơ bản. Đó là phát triển Thủ đô theo mô hình đa cực, đa trung tâm, đa tầng và đa lớp; tư duy “hạ tầng dẫn dắt quy hoạch”, tổ chức không gian theo cấu trúc “trục - vành đai - ga” và xây dựng cơ sở dữ liệu quy hoạch thống nhất.
6 hạn chế trong quy hoạch chung Thủ đô thời gian qua
Theo Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc, Hà Nội - Thủ đô của cả nước - đang đứng trước yêu cầu phát triển mới, trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh, áp lực dân số lớn, biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét và yêu cầu hội nhập, cạnh tranh quốc tế ngày càng cao. Thực tiễn hơn 14 năm triển khai Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và quá trình lập Điều chỉnh Quy hoạch chung đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 cho thấy: quy hoạch đã đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển, song cũng bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế mang tính cấu trúc.
Trước hết, Quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn 2050 được xây dựng trong bối cảnh điều kiện kinh tế – xã hội, thể chế và công nghệ còn nhiều khác biệt so với hiện nay. Các chỉ tiêu dân số, sử dụng đất, hạ tầng chủ yếu được xác định theo phương pháp dự báo tuyến tính, ít kịch bản, dẫn đến chưa dự báo đầy đủ dòng di cư thực tế và dân số, chưa lượng hóa rõ ngưỡng chịu tải hạ tầng; khó thích ứng khi bối cảnh phát triển thay đổi nhanh. Điều chỉnh Quy hoạch chung đến năm 2045, tầm nhìn 2065 đã khắc phục một phần, song vẫn chịu áp lực từ hệ thống dữ liệu và phương pháp tiếp cận truyền thống.
Bên cạnh đó, cũng còn sự bất cập trong mối quan hệ giữa quy hoạch và hạ tầng. Thực tiễn cho thấy, nhiều khu vực đô thị phát triển nhanh hơn khả năng đầu tư hạ tầng, đặc biệt là giao thông, thoát nước, xử lý chất thải. Nguyên nhân là do quy hoạch chức năng đi trước hạ tầng; nên thiếu công cụ đo lường năng lực chịu tải theo thời gian thực. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải cục bộ, làm giảm hiệu quả và tính bền vững của quy hoạch.
Trong quá trình lập và triển khai Quy hoạch chung Thủ đô đến nay, công tác ứng dụng công nghệ thông tin và khai thác dữ liệu đã có những bước tiến nhất định, tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể, dữ liệu phân tán, thiếu tích hợp. Đặc biệt, dữ liệu về dân cư, đất đai, hạ tầng kỹ thuật, môi trường, kinh tế - xã hội hiện đang được quản lý bởi nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau, thiếu một nền tảng dữ liệu thống nhất phục vụ lập và quản lý quy hoạch. Chất lượng và tính cập nhật của dữ liệu chưa cao. Nhiều dự báo dân số, nhu cầu sử dụng đất, hạ tầng được xây dựng trên cơ sở số liệu tĩnh, chưa phản ánh đầy đủ các dòng di chuyển dân cư, lao động, du lịch, dân số ban ngày - ban đêm, dẫn đến hạn chế trong xác định ngưỡng chịu tải đô thị. Ứng dụng công nghệ thông tin chủ yếu dừng ở giai đoạn lập quy hoạch: Sau khi quy hoạch được phê duyệt, việc cập nhật, theo dõi, giám sát thực hiện quy hoạch bằng công nghệ số còn hạn chế; quy hoạch vẫn thiên về “bản vẽ” hơn là “hệ thống quản lý sống”.
Việc tổ chức không gian đô thị theo chiều sâu cũng còn nhiều hạn chế. Quy hoạch chung hiện nay vẫn thiên về quản lý mặt bằng (mật độ, tầng cao, hệ số sử dụng đất), trong khi, không gian ngầm, không gian tầm thấp chưa được coi là tài nguyên phát triển.
Việc tái thiết đô thị, đặc biệt là cải tạo chung cư cũ, thiếu đột phá về mô hình và cơ chế. Trong bối cảnh quỹ đất bề mặt ngày càng hạn chế, cấu trúc di sản dày đặc, Hà Nội buộc phải chuyển sang mô hình đô thị đa tầng – đa lớp, khai thác không gian theo chiều đứng để tái cấu trúc đô thị mà không phá vỡ cấu trúc lịch sử.
Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội Nguyễn Trọng Kỳ Anh phát biểu.
Một điểm hạn chế nữa là vấn đề liên kết vùng và vai trò dẫn dắt của Thủ đô thiếu cơ chế điều phối vùng hiệu quả. Đầu tư hạ tầng liên vùng phụ thuộc nguyên tắc “địa phương nào địa phương đó làm”, dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, hạn chế hiệu quả đầu tư. Hà Nội chưa được trao đủ thẩm quyền và nguồn lực để đóng vai trò trung tâm điều phối phát triển Vùng Thủ đô.
Trong khi đó, Quy hoạch Thủ đô không thể tách rời quy hoạch vùng, và muốn thực thi hiệu quả phải có cơ chế thể chế hóa vai trò “Hà Nội vì cả vùng”, cho phép Thủ đô đầu tư hạ tầng chiến lược vượt địa giới hành chính và chia sẻ chức năng với các tỉnh lân cận.
Cuối cùng, quy hoạch đang thiếu công cụ giám sát hiệu quả. Quy hoạch chủ yếu được thể hiện dưới dạng bản vẽ và văn bản, trong khi chưa có hệ thống theo dõi thực hiện quy hoạch dựa trên dữ liệu. Việc lập, điều chỉnh quy hoạch còn mang tính phản ứng, chưa chủ động. Do đó, quy hoạch chưa trở thành công cụ điều hành phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu lập Quy hoạch tổng thể Thủ đô Hà Nội tầm nhìn 100 năm không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà là yêu cầu chuyển đổi tư duy quy hoạch, từ ngắn hạn sang dài hạn, từ quy hoạch tĩnh sang quy hoạch động, từ quản lý không gian sang quản trị phát triển.
Phát triển Thủ đô theo mô hình đa cực - đa trung tâm – đa tầng – đa lớp
Từ thực tiễn trên, quy hoạch của Thủ đô sắp tới không chỉ có tầm nhìn 100 năm, mà phải dựa trên năng lực hạ tầng, đặt trong không gian vùng và quốc gia, không giới hạn trong ranh giới hành chính; có khả năng cập nhật, giám sát liên tục; áp dụng dữ liệu và nền tảng số.
Theo đó, quy hoạch sẽ phát triển Thủ đô theo mô hình đa cực - đa trung tâm – đa tầng – đa lớp, trong đó mỗi cực có tính tự chủ về chức năng; gắn kết hữu cơ với toàn đô thị và vùng Thủ đô và được kết nối bởi hệ thống hạ tầng đồng bộ. Mô hình này cho phép mở rộng quy mô trung tâm, giảm áp lực lõi đô thị, đồng thời tạo ra các không gian tăng trưởng mới.
Đồng thời, Quy hoạch tổng thể Thủ đô tầm nhìn 100 năm cần chuyển từ tư duy “quy hoạch để xây dựng” sang tư duy “hạ tầng dẫn dắt quy hoạch”, trong đó, hạ tầng giao thông, năng lượng, nước, thoát nước, xử lý rác, hạ tầng số được coi là một hệ thống thống nhất. Mọi chiến lược dân cư, công nghiệp, dịch vụ phải xoay quanh năng lực hạ tầng.
Cấu trúc “trục - vành đai - ga” là hình thức cụ thể hóa tư duy hạ tầng dẫn dắt, trong đó trục là hành lang giao thông - kinh tế chủ đạo; Vành đai sẽ điều tiết phát triển, phân bố logistics và công nghiệp sạch và cuối cùng ga là điểm nút: hạt nhân phát triển TOD, tối ưu hóa giá trị đất đai và hạ tầng gắn với chú trọng phát triển không gian ngầm.
Cuối cùng, quy hoạch cần xây dựng cơ sở dữ liệu đô thị tích hợp, bao gồm: dữ liệu dân cư, đất đai, hạ tầng, môi trường; dữ liệu từ giao thông, năng lượng, thoát nước; dữ liệu khí hậu, kinh tế - xã hội. Đây là nền tảng cho dự báo dài hạn và ra quyết định dựa trên bằng chứng.
Trên cơ sở định hướng này, thời gian tới, Quy hoạch tổng thể Hà Nội tầm nhìn 100 năm sẽ tiếp tục được hoàn thiện. Đây sẽ là cơ hội quan trọng để chuyển đổi căn bản tư duy phát triển, từ quy hoạch hình học sang quy hoạch vận hành, từ quản lý không gian sang quản trị hệ thống. Việc kết hợp chặt chẽ giữa mô hình phát triển đa cực, tư duy hạ tầng dẫn dắt, nền tảng dữ liệu – công nghệ số và hệ thống công cụ quản lý thống nhất đến cấp cơ sở sẽ tạo nền tảng vững chắc để Hà Nội phát triển bền vững, hiện đại và có sức cạnh tranh cao trong dài hạn.
Lê Huyền