Phí rác tính theo cân nặng, cú hích cho nền kinh tế tuần hoàn

Phí rác tính theo cân nặng, cú hích cho nền kinh tế tuần hoàn
4 giờ trướcBài gốc
Sau hàng loạt dự án xử lý rác đồ sộ được khởi công, tỷ lệ tái chế rác ở Việt Nam vẫn chưa vượt 20%, rất ít hộ dân đô thị phân loại rác tại nguồn, trong khi nhiều nhà máy đốt rác phát điện hoạt động cầm chừng. Vấn đề không nằm ở công nghệ, mà ở cơ chế và chính sách khuyến khích.
Bức tranh rác: đầu tư lớn, hiệu quả nhỏ
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, lượng rác thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam đã vượt 65.000 tấn mỗi ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm hơn 60%. Bình quân mỗi người dân đô thị thải ra 1-1,2 kg rác mỗi ngày. Tuy nhiên, đến năm ngoái, tỷ lệ hộ gia đình thực hiện phân loại rác tại nguồn rất thấp, và tỷ lệ rác được xử lý bằng công nghệ tái chế mới đạt khoảng 19%.
Hơn 70% lượng rác vẫn được chôn lấp, phần lớn tại các bãi rác quá tải như Nam Sơn (Hà Nội) hay Đa Phước (TPHCM). Có nơi còn dùng công nghệ chôn lấp lộ thiên, thiếu lớp chống thấm và thu hồi khí mê-tan, đang là nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí, nước ngầm và phát thải khí nhà kính.
Các dự án xử lý rác hiện đại như đốt rác phát điện, đồng xử lý (nôm na là đốt trong lò nung) trong lò xi măng chỉ mới ở giai đoạn thử nghiệm vài trăm ngàn tấn rác. Đến giữa năm nay, cả nước có 7 nhà máy điện rác đang hoạt động, tổng công suất xử lý hơn 5.000 tấn/ngày, chỉ tương đương 8% lượng rác đô thị. Một số dự án ngàn tỉ ở các địa phương gặp khó vì giá mua điện từ rác được cho là thấp và thời gian hoàn vốn quá dài.
“Công nghệ xịn” không cứu được cơ chế cũ
Báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực dài hơn 300 trang của Bộ Nông nghiệp và Môi trường gửi Quốc hội hôm 24-10 cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất của hệ thống xử lý rác hiện nay là cơ chế tài chính. Mức phí thu gom và xử lý rác sinh hoạt ở đô thị trung bình chỉ 20.000 - 30.000 đồng mỗi hộ/tháng, trong khi chi phí thực tế cao gấp 3-5 lần. Phần chênh lệch do ngân sách địa phương bù, dẫn đến thiếu nguồn tái đầu tư, không khuyến khích đổi mới công nghệ.
Theo các tìm hiểu của người viết, giá điện sinh khối từ rác do Nhà nước quy định hiện có mức trần tối đa là 2.575,18 đồng/kWh (chưa bao gồm VAT), cao hơn điện gió tối đa 1.959,4 đồng/kWh hay điện mặt trời 1.685,8 đồng/kWh.
Các dự án điện rác từng được kỳ vọng tạo đột phá, nhưng đang vướng ở bài toán “giá điện rác”. Các nhà đầu tư điện rác cho rằng điện rác đầu tư tốn kém, phức tạp hơn, nên giá trên vẫn còn thấp. Chưa kể, thủ tục ký hợp đồng mua điện với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) kéo dài, thiếu hướng dẫn về thuế và tín dụng xanh. Nhiều nhà máy dù xây xong vẫn chưa thể hòa lưới điện vì chưa có khung giá mới.
Trong khi đó, các mô hình thu gom - vận chuyển rác tại đô thị vẫn theo phương thức “khoán gọn”, thiếu giám sát, thiếu dữ liệu số. Không ít doanh nghiệp môi trường đô thị được giao độc quyền khu vực nhưng năng lực hạn chế, dẫn đến chi phí cao mà hiệu quả thấp. Một số nơi vẫn còn tình trạng “rác tái chế lẫn rác thải thực phẩm”, dù đã phân loại tại nguồn, khiến người dân mất niềm tin.
Nên tính phí rác theo khối lượng
Kinh nghiệm các nước cho thấy, chính sách đúng quan trọng hơn công nghệ mới. Nhật Bản đạt tỷ lệ tái chế 56% không phải vì công nghệ đốt rác tiên tiến, mà nhờ cơ chế đồng bộ: phân loại nghiêm, phí rác theo khối lượng, và thị trường tái chế hoạt động minh bạch.
Dự án thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn rác thải nhựa tại Cần Giờ.
Tại Thái Lan, từ năm 2020, chính quyền Bangkok áp dụng cơ chế đối tác công - tư trong xử lý rác, nhà đầu tư được bảo đảm doanh thu tối thiểu 80% công suất thiết kế trong 5 năm đầu. Singapore xem rác là “tài nguyên thứ hai”: Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp tư nhân vận hành và bán điện từ rác theo giá ưu đãi cố định.
Ở Việt Nam, dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã đưa nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiền”, nhưng chưa có cơ chế thực thi hiệu quả. Việc áp dụng “phí rác theo khối lượng” mới chỉ thí điểm ở một số phường của TPHCM và Hà Nội. Thị trường tái chế chưa phát triển do thiếu quy định bắt buộc về thu hồi bao bì, sản phẩm sau tiêu dùng. Chương trình EPR (trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất) đang triển khai chậm, doanh nghiệp còn e dè vì thủ tục phức tạp và thiếu hướng dẫn cụ thể.
Cần một “cú hích chính sách”
Rõ ràng Việt Nam cần một “cú hích chính sách” đủ mạnh để tạo thị trường vận hành tự thân. Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong báo cáo của mình, cho rằng, thứ nhất, ban hành giá điện rác ổn định, phù hợp mức độ khó trong đầu tư để tạo tín hiệu quan trọng thu hút đầu tư tư nhân, đồng thời giảm phụ thuộc vào ngân sách.
Thứ hai, áp dụng cơ chế phí rác theo khối lượng trên toàn quốc từ 2026, buộc người thải nhiều phải trả nhiều. Cơ chế này không chỉ công bằng mà còn thúc đẩy phân loại, giảm lượng rác chôn lấp.
Thứ ba, ưu tiên đối tác công - tư cho xử lý rác đô thị, đặc biệt là mô hình hợp đồng dịch vụ dài hạn, chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và nhà đầu tư. Khi có khung giá rõ, doanh nghiệp mới dám đầu tư công nghệ đốt rác phát điện hoặc tái chế nhựa.
Thứ tư, phát triển thị trường tái chế nội địa bằng cách khuyến khích doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, liên kết xây dựng nhà máy tái chế khu vực, hỗ trợ thu hồi phế liệu, nhựa, pin, thiết bị điện tử.
Ngoài ra, cần minh bạch dữ liệu, công khai số liệu thu gom, phân loại, xử lý rác trên nền tảng trực tuyến để người dân và doanh nghiệp giám sát. Hạ tầng số hóa này không tốn kém, nhưng hiệu quả quản lý sẽ tăng lên đáng kể.
Vấn đề của rác đô thị Việt Nam không còn là “chọn công nghệ nào”, mà là “ai trả tiền và trả thế nào”. Nếu tiếp tục trông vào ngân sách, các dự án xử lý rác sẽ mãi là gánh nặng, không phải cơ hội kinh tế. Chỉ khi hình thành cơ chế thị trường rác, nơi chất thải trở thành tài nguyên, mới có thể thu hút được dòng vốn tư nhân và công nghệ hiện đại.
Hồng Văn
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/phi-rac-tinh-theo-can-nang-cu-hich-cho-nen-kinh-te-tuan-hoan/