Việc khó huy động vốn dài hạn qua kênh trái phiếu và ngày càng phụ thuộc vào dòng chảy tín dụng của các ngân hàng khiến doanh nghiệp khó có thể mạnh dạn đầu tư dài hạn hay mở rộng quy mô. Ảnh: LÊ VŨ
Nhóm ngân hàng chiếm lĩnh sân chơi
Đến hết quí 3-2025, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam đạt 1,27 triệu tỉ đồng, tăng 6% so với cuối năm 2024 và tương đương 7,4% tổng dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế, theo báo cáo của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam. Tuy vậy, quy mô này không thay đổi nhiều từ cuối năm 2023 đến nay, dao động quanh mức 1,2 triệu tỉ đồng, khi các doanh nghiệp có xu hướng mua lại trái phiếu trước hạn trong thời gian qua. Riêng quí 3, doanh nghiệp đã mua lại trước hạn khoảng 93.300 tỉ đồng TPDN, tăng gần 33% so với cùng kỳ.
Ba tháng còn lại của năm 2025, giá trị TPDN sẽ đáo hạn là hơn 48.000 tỉ đồng, trong đó bất động sản chiếm 38% (khoảng 18.300 tỉ đồng) và ngân hàng chiếm 29% (gần 13.800 tỉ đồng).
Đáng lưu ý, giá trị phát hành TPDN trong quí 3-2025 cũng sụt giảm 19% so với cùng kỳ năm 2024, khi chỉ đạt 129.300 tỉ đồng, cho thấy những khó khăn và thách thức mà kênh huy động vốn này đang phải đối mặt, trong đó, các doanh nghiệp vẫn tập trung phát hành riêng lẻ. Xét theo nhóm ngành, giá trị phát hành của nhóm ngân hàng dù giảm 31% so với cùng kỳ, đạt 90.800 tỉ đồng, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng hơn 70% tổng giá trị trong quí.
Theo cơ chế vòng quay vốn, khi các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc phát hành trái phiếu, họ buộc tìm đến kênh tín dụng của hệ thống ngân hàng và ngày càng phụ thuộc lớn hơn. Đến lượt mình, các ngân hàng phải tăng cường huy động vốn qua kênh trái phiếu (và các kênh vốn dài hạn khác) để đảm bảo nguồn vốn cho vay và quản trị kỳ hạn.
Lũy kế chín tháng đầu năm 2025, doanh nghiệp phát hành khoảng 397.900 tỉ đồng TPDN - bằng 85% cả năm 2024 và cao hơn 17% so với cả năm 2023. Trong đó, hầu hết là phát hành riêng lẻ, chiếm gần 88% tổng giá trị. Khối ngân hàng vẫn chiếm đa số với 73% và theo sau là bất động sản với 18% tổng giá trị phát hành.
Xu hướng này cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường TPDN vẫn còn thấp, dòng vốn chỉ tập trung vào trái phiếu do các ngân hàng phát hành dựa trên uy tín và độ tin cậy của nhóm này. Ngoài ra, các ngân hàng cũng tích cực “bật tường” đầu tư trái phiếu lẫn nhau để cải thiện các hệ số an toàn thanh khoản, đáp ứng quy định các tỷ lệ như nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Ngược lại, nhóm bất động sản vừa gặp khó khăn chung về thị trường, dòng tiền yếu và cũng là khu vực có khối lượng đáo hạn lớn trong năm. Điều này phần nào ảnh hưởng tiêu cực lên chiến lược phát hành trái phiếu mới của nhóm. Đặc biệt, kết luận của Thanh tra Chính phủ về việc phát hành TPDN riêng lẻ đã chỉ ra không ít sai phạm của nhóm doanh nghiệp bất động sản, thậm chí một số hồ sơ chuyển sang cơ quan điều tra, càng làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư.
Mất cân đối thị trường vốn
Thị trường TPDN chững lại trong những năm gần đây đi kèm việc khối ngân hàng chiếm tỷ trọng phát hành vượt trội, trong khi tín dụng toàn nền kinh tế vẫn tăng mạnh - những diễn biến này có mối liên hệ với nhau. Theo cơ chế vòng quay vốn, khi các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc phát hành trái phiếu, họ buộc phải tìm đến kênh tín dụng của hệ thống ngân hàng và ngày càng phụ thuộc lớn hơn. Đến lượt mình, các ngân hàng phải tăng cường huy động vốn qua kênh trái phiếu (và các kênh vốn dài hạn khác) để đảm bảo nguồn vốn cho vay và quản trị kỳ hạn.
Tuy nhiên, xu hướng này kéo dài có thể dẫn đến không ít hệ quả tiêu cực cho nền kinh tế. Đầu tiên, khi kênh tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng tín dụng xã hội, còn các kênh huy động vốn trung dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu phát triển yếu sẽ khiến cấu trúc thị trường tài chính mất cân đối. Khi đó, rủi ro tập trung vào khu vực ngân hàng, giảm khả năng chống chịu của hệ thống tài chính khi xảy ra cú sốc.
Cũng cần lưu ý, nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu ngắn hạn, từ 12 tháng trở xuống, trong khi nhu cầu vay của các doanh nghiệp lại là trung dài hạn. Điều này dẫn tới rủi ro kỳ hạn và áp lực thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, buộc các ngân hàng phải liên tục tăng vốn hoặc cải thiện nguồn vốn trung, dài hạn, bằng cách liên tục phát hành trái phiếu. Nhà điều hành cũng phải cân nhắc nới các tỷ lệ an toàn hoặc can thiệp chính sách để duy trì cân bằng tạm thời.
Khi nền kinh tế phụ thuộc lớn vào kênh tín dụng, hiệu quả phân bổ vốn giảm sút là điều tất yếu. Để bảo đảm an toàn, các ngân hàng có khuynh hướng ưu tiên cho vay các doanh nghiệp có tài sản thế chấp, dòng tiền ổn định, thay vì các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh hoặc đổi mới sáng tạo. Do đó, dòng vốn không chảy vào khu vực hiệu quả nhất, làm giảm năng suất tổng thể của nền kinh tế (TFP).
Việc khó huy động vốn dài hạn qua kênh trái phiếu và ngày càng phụ thuộc vào dòng chảy tín dụng của các ngân hàng khiến doanh nghiệp khó có thể mạnh dạn đầu tư dài hạn hay mở rộng quy mô, bởi chính sách tín dụng của các ngân hàng cũng biến động theo từng thời điểm, triển vọng của nền kinh tế nói chung và thực trạng hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng.
Ngoài ra, vay vốn ngân hàng cũng có những hạn chế nhất định, từ hạn mức tín dụng cho đến tài sản bảo đảm, chưa kể lãi suất vay ngân hàng thường cao hơn so với phát hành trái phiếu. Việc các ngân hàng tăng cường phát hành trái phiếu rồi đem cho doanh nghiệp vay lại, vô hình trung khiến các doanh nghiệp càng khó cạnh tranh hơn trong việc huy động vốn qua kênh trái phiếu. Điều này như một vòng xoáy ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu phát triển thị trường TPDN.
Trên thị trường TPDN, các yêu cầu về thực thi, giám sát, xếp hạng tín nhiệm và công bố thông tin ngày càng chặt. Nếu doanh nghiệp chỉ dựa vào tín dụng ngân hàng - ít chịu “soi” bởi thị trường, tổ chức xếp hạng và nhà đầu tư lớn - thì về dài hạn, chất lượng quản trị khó nâng tầm, báo cáo tài chính kém minh bạch và cơ hội tiếp cận vốn quốc tế bị thu hẹp.
Triệu Minh