Không khí phấn khởi và tràn đầy niềm tin hướng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Ảnh: Trường Giang
Những tham luận tại phiên họp không chỉ phân tích, đánh giá toàn diện các thành tựu nổi bật trong nhiệm kỳ vừa qua mà còn thẳng thắn chỉ ra những điểm nghẽn, khó khăn, hạn chế. Từ đó, các đại biểu đã kiến nghị, đề xuất các giải pháp cụ thể, thiết thực và có tính khả thi cao, nhằm tạo đà thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn 2025-2030, qua đó đóng góp thiết thực, làm rõ những nội dung trọng tâm và góp phần hoàn thiện chất lượng văn kiện, quyết sách quan trọng của Đại hội…
Báo Ninh Bình điện tử trích đăng một số tham luận trình bày tại Phiên trù bị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO VÀ DÂN VẬN TRONG TÌNH HÌNH MỚI
(Tham luận của đồng chí Nguyễn Đức Toàn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy)
Đồng chí Nguyễn Đức Toàn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy.
... Hội nghị lần thứ 12 của BCH Trung ương Đảng khóa XIII đã quyết định tích hợp nội dung 3 văn kiện gồm Báo cáo chính trị, Báo cáo Kinh tế - Xã hội và báo cáo về Tổng kết Xây dựng Đảng và Thi hành Điều lệ Đảng (Nội dung công tác xây dựng Đảng) thành Báo cáo chính trị theo một trục xuyên suốt, thống nhất, đồng bộ để trình Đại hội XIV của Đảng. Đây là một sự đổi mới, đột phá về tư duy, thể hiện được cách làm sáng tạo, tránh được sự trùng lặp, thiếu thống nhất giữa các báo cáo của trung ương. Nghiên cứu Dự thảo Báo cáo chính trị, tôi đồng tình, nhất trí cao và nhận thấy, Dự thảo ngắn gọn, có tính khái quát cao, rõ quan điểm, chủ trương, các định hướng, các nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược. Báo cáo đã phản ánh đúng thực tiễn phát triển của đất nước, xác định rõ các mục tiêu của nhiệm kỳ Đại hội XIV, tầm nhìn đến năm 2045 và xa hơn nữa, gắn với 2 mục tiêu: 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Đối với công tác xây dựng Đảng, chúng tôi đồng tình với đánh giá trong dự thảo là: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả quan trọng, có mặt nổi bật, đột phá chưa từng có”. Kết quả cụ thể trên các lĩnh vực như xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và công tác tổ chức, cán bộ, công tác dân vận, công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được nêu trong báo cáo rất đầy đủ, sâu sắc. Đặc biệt, cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã đạt được những kết quả mang tính đột phá, nhận được sự quan tâm, đồng tình ủng hộ của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, dự thảo Báo cáo chính trị đã xác định nhiệm vụ: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chỉnh đốn đảng trong sạch vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, trong đó xác định đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, thuyết phục trong tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng; đồng thời đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền vận động nhân dân, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới, công tác Tuyên giáo và Dân vận đang đứng trước yêu cầu cấp bách cần đổi mới cả về tư duy chiến lược, mô hình tổ chức và phương thức hoạt động. Những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, công nghệ, sự bùng nổ của truyền thông số và không gian mạng, các nguy cơ diễn biến hòa bình, thông tin sai lệch, kích động chia rẽ… đang đặt ra những thách thức mới, phức tạp, đòi hỏi sự thích ứng, linh hoạt của hệ thống tuyên giáo và dân vận.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trên, tôi đề nghị Trung ương cần nghiên cứu bổ sung vào Chương trình hành động của nhiệm kỳ 2025-2030 một Đề án hoặc Chương trình tổng thể, dài hạn cho công tác Tuyên giáo và Dân vận qua đó thể hiện tính chủ động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội, giữ vững ổn định chính trị và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Tôi hoàn toàn nhất trí với các văn kiện của BCH Đảng bộ tỉnh báo cáo với Đại hội. Báo cáo chính trị đã đánh giá khách quan, đầy đủ và sâu sắc trên các lĩnh vực công tác, trong đó khẳng định công tác Tuyên giáo và Dân vận của Đảng đã có đóng góp quan trọng vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu nghị quyết đề ra. Báo cáo cũng đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, phương châm hành động, các khâu đột phá, các giải pháp chủ yếu để phấn đấu đến năm 2030 Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc trung ương - mục tiêu có tính chiến đấu cao nhưng cũng đầy thách thức. Một trong những giải pháp chủ yếu để hiện thực hóa mục tiêu đó là tăng cường công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, trước hết là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác dân vận.
Tuyên giáo và Dân vận là những lĩnh vực cấu thành công tác tư tưởng của Đảng với mục đích là tuyên truyền vận động các tầng lớp Nhân dân chung sức đồng lòng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong bối cảnh kỷ nguyên mới, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ số, cùng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác Tuyên giáo và Dân vận đứng trước yêu cầu nhiệm vụ mới vừa nặng nề, vừa cấp bách. Thực tiễn của đất nước đã và đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Do đó công tác Tuyên giáo và Dân vận phải đổi mới mạnh mẽ toàn diện cả về tư duy, nội dung cũng như phương thức thực hiện để hướng đến tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển đất nước.
Mặt khác, sau sáp nhập, tỉnh Ninh Bình có quy mô dân số đông, tiềm năng phong phú, đa dạng, giàu truyền thống lịch sử - văn hóa; việc triển khai thực hiện chính quyền địa phương hai cấp đặt ra yêu cầu cao hơn, hiệu quả hơn trong triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Do đó, công tác Tuyên giáo và Dân vận của tỉnh phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, tôi xin đề xuất một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác Tuyên giáo và Dân vận. Xác định rõ công tác Tuyên giáo và Dân vận là trách nhiệm của hệ thống chính trị, trước hết là của cấp ủy và người đứng đầu. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu gương, gắn bó mật thiết với Nhân dân, thường xuyên đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng để kịp thời giải đáp, tháo gỡ khó khăn, củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội. Đồng thời, nhận thức được những nội dung mới trong tư duy lý luận về công tác Tuyên giáo và Dân vận của Đảng. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa Tuyên giáo và Dân vận, giữa tuyên truyền và vận động, giữa định hướng tư tưởng và dẫn dắt hành động, theo đó, công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng phải gắn liền với công tác vận động tổ chức thực hiện.
Mặt khác, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng cùng sự phát triển mạnh mẽ của các nền tảng công nghệ số, truyền thông số đã biến không gian mạng thành một mặt trận mới của công tác tư tưởng và công tác vận động quần chúng. Đây là mặt trận không có biên giới rõ ràng, nơi sức mạnh không nhất thiết phụ thuộc vào quy mô kinh tế hay quân sự. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo mở ra nhiều cơ hội, đồng thời đặt ra những thách thức to lớn cho công tác Tuyên giáo và Dân vận, đòi hỏi một cách tiếp cận, cách triển khai mới để tạo ra sức sống mới, hiệu năng, hiệu quả. Trong kỷ nguyên mới, không gian mạng có thể là mặt trận quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng, hiệu quả công tác Tuyên giáo và Dân vận.
Hai là, để sớm hiện thực hóa mục tiêu đề ra, cùng với báo cáo chính trị, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cũng đã dự thảo chương trình hành động với những kế hoạch, chương trình, đề án cụ thể, rõ cơ quan tham mưu, cơ quan tổ chức thực hiện, thời gian hoàn thành và nguồn lực đảm bảo. Tôi đề nghị trước khi tổ chức triển khai, các cơ quan đơn vị chủ trì cần rà soát nhằm đảm bảo tất cả những chủ trương đó đều xuất phát từ yêu cầu phát triển của tỉnh và đất nước, nhưng cũng chính là xuất phát từ mong muốn, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Quá trình thực hiện cần thông tin kịp thời, đầy đủ, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền với vận động để tạo sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân, đặc biệt là những chương trình, dự án có liên quan đến thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, tái định cư, những chương trình liên quan đến an sinh và cuộc sống thiết thực của người dân.
Ba là: Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Tuyên giáo và Dân vận ở cơ sở. Đây là lực lượng có nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu những chủ trương, chính sách, trực tiếp đề xuất triển khai, quán triệt, cụ thể hóa những chủ trương, chính sách đó phù hợp thực tiễn của địa phương. Đồng thời, cũng là lực lượng trực tiếp tuyên truyền, vận động, theo dõi chặt chẽ, gắn bó mật thiết với Nhân dân, nắm rõ những tư tưởng, tình cảm, tâm tư của quần chúng nhân dân cũng như các vấn đề nổi cộm, dư luận quan tâm. Đây cũng là lực lượng trên tuyến đầu đấu tranh với những nhận thức, tư tưởng sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Sau khi sáp nhập đơn vị hành chính, địa bàn xã, phường rộng hơn, khối lượng công việc nhiều, tổ chức bộ máy đã được tinh gọn, trong khi yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao, vì vậy, đội ngũ cán bộ Tuyên giáo và Dân vận cần được đặc biệt quan tâm, từ lựa chọn, bố trí, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ Tuyên giáo, Dân vận ở cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, thành thạo chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu công nghệ số, có kỹ năng thuyết phục, vận động quần chúng. Mỗi cán bộ phải thực sự là “chiến sĩ tiên phong” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, gần dân, sát dân, là cầu nối tin cậy giữa Đảng với Nhân dân.
Công tác Tuyên giáo và Dân vận không chỉ “đi trước - mở đường, đi cùng - thực hiện, đi sau - tổng kết” mà còn phải trở thành lực lượng xung kích, sáng tạo, từng bước đưa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình Việt Nam và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới được thấm sâu, lan tỏa trong đời sống xã hội. Thực hiện tốt công tác Tuyên giáo và Dân vận chính là góp phần phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh đồng thuận, đồng lòng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
(Tham luận của đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy)
Đồng chí Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy.
... Điều lệ Đảng đã khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng; một trong những nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của tổ chức đảng là phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, đồng thời tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực hiện Điều lệ Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về “tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và các quy định, kết luận, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát.
Trong nhiệm kỳ qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh đã được tăng cường, đi sâu đổi mới cả về nội dung và phương pháp, mang lại hiệu quả rõ rệt trong siết chặt kỷ cương, nâng cao năng lực lãnh đạo, thúc đẩy liêm chính trong hoạt động công vụ. UBKT các cấp trong tỉnh đã tích cực tham mưu giúp cấp ủy các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, thực hiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; ban hành các văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo về công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng, thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng năm đảm bảo trọng tâm, trọng điểm, thiết thực.
Tham mưu chuẩn bị tốt nội dung làm việc với các đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong đó có nhiều nhiệm vụ đột xuất lớn (Trong nhiệm kỳ đã làm việc với 9 Đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương (trong đó: Hà Nam 4 đoàn, Nam Định 2 đoàn, Ninh Bình 3 đoàn). Tính chủ động thể hiện rõ trong Chương trình kiểm tra, giám sát của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình với khối lượng tăng, tốc độ khẩn trương, phương pháp được đổi mới (nhiệm kỳ 2020 - 2025, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy 3 tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã thực hiện 135 cuộc kiểm tra, giám sát (trong đó: Hà Nam 29 cuộc, Nam Định 73 cuộc, Ninh Bình 33 cuộc); Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy 3 tỉnh đã thực hiện 132 cuộc kiểm tra, giám sát (trong đó: Hà Nam 24 cuộc, Nam Định 58 cuộc, Ninh Bình 50 cuộc)).
Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, đã mở rộng đối tượng, phạm vi kiểm tra, giám sát; tăng cường kiểm tra dấu hiệu vi phạm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; coi trọng giám sát thường xuyên, chuyên đề; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm tra, giám sát; đi sâu kiểm tra, giám sát về kê khai tài sản và thu nhập của đảng viên, thực hiện công khai kết quả kiểm tra, giám sát.
Xem xét thi hành kỷ luật bảo đảm nguyên tắc, thủ tục, thẩm quyền theo quy định (nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã thi hành kỷ luật 54 tổ chức đảng, 4.074 đảng viên (trong đó: Nam Định: 13 tổ chức đảng, 709 đảng viên; Hà Nam: 29 tổ chức đảng, 2.161 đảng viên; Ninh Bình: 12 tổ chức đảng, 1.204 đảng viên). Giải quyết khiếu nại, tố cáo được nhiều cấp ủy trong Đảng bộ 3 tỉnh quan tâm chỉ đạo, nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài được xử lý dứt điểm. Thực hiện nghiêm kiểm soát quyền lực trong công tác kiểm tra, giám sát, phối hợp nhịp nhàng hơn với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, tòa án, kiểm sát, điều tra. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng đã kịp thời cảnh báo, phòng ngừa, răn đe, chấn chỉnh, uốn nắn, khắc phục, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nâng cao trách nhiệm tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, ủy ban kiểm tra các cấp đã thực hiện tốt Quy chế phối hợp, tham mưu giúp cấp ủy cùng cấp chỉ đạo xem xét, giải quyết kịp thời những vấn đề “nổi cộm”, “bức xúc”, tố cáo, khiếu kiện đông người, những vấn đề dư luận cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm, góp phần giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội trên địa bàn; tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, triển khai thực hiện các chương trình, đề án trọng tâm của tỉnh, phát triển kinh tế - xã hội; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phục vụ tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026 và Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, toàn Đảng bộ tỉnh đã cơ bản hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; giữ vững địa bàn an toàn, kiểm soát dịch bệnh COVID-19 hiệu quả, nhanh chóng phục hồi và tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết có hiệu quả nhiều tồn đọng kéo dài; tạo nền tảng vững chắc cùng cả nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặt đúng vị trí “then chốt”, tiến hành đồng bộ, đạt được kết quả khá toàn diện, nhiều mặt nổi bật. Có đột phá lớn về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hợp nhất đơn vị hành chính, xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.
Từ thực tế thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh trong nhiệm kỳ qua, các yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược, xuyên suốt trong thời gian tới, như: 1) Thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng và ủy ban kiểm tra các cấp, trong đó coi trọng nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát ngay từ chi bộ. 2) Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương pháp, cách thức tổ chức công tác kiểm tra, giám sát, chuyển trọng tâm sang phòng ngừa, cảnh báo vi phạm; kiểm tra, giám sát không chỉ để phát hiện, xử lý sai phạm mà trước hết là để giữ gìn kỷ cương, ngăn ngừa, giữ cho tổ chức đảng và đảng viên không đi chệch hướng, góp phần để các chủ trương, chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra thực sự bản lĩnh, liêm chính, chuyên nghiệp, có trình độ và năng lực ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới; đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số toàn diện trong hệ thống chính trị, từng bước chuyển công tác kiểm tra, giám sát từ cách làm truyền thống sang "giám sát trên dữ liệu, kiểm tra trên dữ liệu", trước mắt là công tác kiểm tra, giám sát việc công khai, kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ diện cấp ủy quản lý...
Để đáp ứng được yêu cầu công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong tình hình mới; để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ tỉnh, tôi xin đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp thực hiện:
Một là: Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030; tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18 tháng 4 năm 2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030 và các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nâng cao nhận thức của cấp ủy, các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng.
Hai là: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy, nhất là đối với chi bộ; kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo thực hiện toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ cấp trên giao.
Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phương pháp, cách thức tổ chức công tác kiểm tra, giám sát; chuyển trọng tâm sang công tác phòng ngừa, cảnh báo vi phạm. Kiểm tra, giám sát không chỉ để phát hiện, xử lý sai phạm mà trước hết là cảnh báo, ngăn ngừa vi phạm và để các chủ trương, chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.
Chuyển từ thụ động sang chủ động nắm chắc tình hình, không để có “khoảng trống”, “vùng tối” mà công tác kiểm tra, giám sát của Đảng không vươn tới được; gắn công tác kiểm tra, giám sát với kiểm soát quyền lực; đổi mới công tác giám sát thường xuyên, xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả, có khả năng cảnh báo sớm và phòng ngừa vi phạm ngay từ cơ sở, không để các vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm nghiêm trọng, hình thành và lan tỏa văn hóa chính trị trách nhiệm trong nội bộ Đảng. Kịp thời nắm tình hình, kiểm tra, giám sát, kiến nghị giải quyết những vấn đề “nóng”, dư luận xã hội quan tâm.
Ba là:Xây dựng cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh mạnh, toàn diện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra thực sự bản lĩnh, liêm chính, chuyên nghiệp, có trình độ và năng lực ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới. Tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ trong ngành Kiểm tra Đảng, cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra và cán bộ kiểm tra sang công tác ở các ngành khác để đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ.
Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số toàn diện trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, từng bước chuyển công tác kiểm tra, giám sát từ cách làm truyền thống sang “giám sát trên dữ liệu, kiểm tra trên dữ liệu”.
Bốn là: Ủy ban kiểm tra các cấp triển khai thực hiện toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Tăng cường giám sát thường xuyên, chuyển trọng tâm sang công tác phòng ngừa, cảnh báo vi phạm. Thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên (kể cả cấp ủy viên cùng cấp) khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo tổ chức đảng, đảng viên. Thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm soát tài sản, thu nhập. Xử lý và tham mưu giúp cấp ủy xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm.
Năm là: Tiếp tục thực hiện tốt công tác phối hợp giữa UBKT các cấp với các tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
TẬP TRUNG QUY HOẠCH, PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG CHIẾN LƯỢC, TẠO NỀN TẢNG ĐƯA NINH BÌNH TRỞ THÀNH THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
(Tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Lượng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Xây dựng)
Đồng chí Nguyễn Văn Lượng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Xây dựng.
...Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I nhiệm kỳ 2025-2030 diễn ra trong một bối cảnh lịch sử trọng đại, khi cả nước tiến hành cuộc cách mạng về bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả, hiện thực hóa quyết sách từ Nghị quyết số 18 của Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII, thể hiện tầm nhìn vĩ mô và chiến lược của Đảng và Nhà nước ta nhằm tái cấu trúc không gian, giải phóng mọi nguồn lực để phát triển trong kỷ nguyên mới.
Trên cơ sở sáp nhập 3 tỉnh cũ Hà Nam - Nam Định - Ninh Bình; tỉnh Ninh Bình mới trở thành một tỉnh rộng lớn, giàu tiềm năng, thế mạnh hơn. Việc sáp nhập, tinh gọn bộ máy và thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, không chỉ là một sự kiện hành chính - chính trị khác thường mà còn là vận hội lịch sử có tính chất bước ngoặt đối với tỉnh; là một cơ hội rất lớn, song khó khăn, thách thức cũng không nhỏ.
Về mặt cơ hội, sự hợp nhất này sẽ hội tụ và lan tỏa những tiềm năng, lợi thế độc đáo của tỉnh, đó là:
- Xét về vị trí chiến lược: Ninh Bình mới là yết hầu, cửa ngõ phía Nam Thủ đô Hà Nội, là đầu mối kết nối các phương thức giao thông quốc gia và quốc tế. Đây là lợi thế vô cùng quan trọng để trở thành trung tâm logistics và công nghiệp của vùng.
Với diện mạo mới, tỉnh Ninh Bình có 129 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 32 phường và 97 xã. Dân số đô thị, tính theo các phường đạt 1,36 triệu người trên tổng số 4,4 triệu dân toàn tỉnh. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 30,74%. Sự hợp nhất này tạo ra một cấu trúc đô thị đa trung tâm với 03 “đầu tầu” phát triển là các đô thị trung tâm cũ: TP. Nam Định (Đông), TP. Phủ Lý (Bắc) và TP. Ninh Bình (Nam); với định hướng hình thành vùng phát triển đô thị tam giác trong không gian tỉnh mới, trong đó, điểm nhấn, đóng vai trò trung tâm kết nối - lan tỏa của tỉnh sẽ là Cố đô Hoa Lư - đô thị di sản thiên niên kỷ, bấy lâu đã được quốc tế công nhận và vinh danh.
Cùng với đó, tiềm năng và lợi thế cảnh quan tự nhiên đa dạng và tươi đẹp cũng là một động lực để nâng cao chất lượng quy hoạch - xây dựng, nhất là quy hoạch - xây dựng các không gian sinh thái bền vững phục vụ phát triển du lịch và nâng cao chất lượng sống, không chỉ cho cư dân Ninh Bình mà còn thu hút đông đảo du khách muôn nơi đến tận hưởng.
- Xét về yếu tố bản sắc văn hóa: Ninh Bình là "vùng đất lưỡng diện" - một mặt là vùng đất gắn với sự phát triển phồn thịnh của Triều đại Lý, Trần (Hoa Lư, Thiên Trường...) trầm tích nhiều di sản văn hóa, lịch sử mang đậm văn hóa đặc trưng của vùng đất Sơn Nam, của văn hóa châu thổ đồng bằng Sông Hồng. Đặc biệt, với vị thế Cố đô - đô thị của nhà nước Đại Việt, hình thành nên không gian văn hóa Tràng An (Ninh Bình), được tiếp biến, hiện diện bền vững trong văn hóa Đông Đô - Thăng Long (Hà Nội) là một điểm nhấn văn hóa có một không hai. Mặt khác, đó là một đô thị hiện đại, năng động, hội nhập, khát khao vươn dậy để phát triển.
- Xét phương diện nguồn lực: Sự kết hợp giữa Nam Định với truyền thống công nghiệp dệt may và vùng thâm canh năng suất cao và kinh tế biển; Hà Nam với lợi thế công nghiệp - đô thị; Ninh Bình với tiềm năng du lịch, nông nghiệp sinh thái, công nghiệp mũi nhọn; tạo ra một nền tảng kinh tế đa dạng và bền vững.
Với nhiệm vụ được dự thảo văn kiện xác định là đưa tỉnh Ninh Bình mới trở thành đô thị - thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030, sớm hơn 5 năm so với định hướng ban đầu; ngành Xây dựng lãnh nhận nhiệm vụ tiên phong trong việc kiến tạo không gian sống, hình thành hệ thống đô thị văn minh, hiện đại, và xây dựng nền tảng hạ tầng chiến lược, tạo động lực cho sự phát triển của toàn tỉnh.
Về khó khăn, thách thức,tại Đại hội này, ngành Xây dựng mạnh dạn thẳng thắn đánh giá thực trạng và những thách thức đang đối mặt, nhất là khi đối chiếu với các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, cụ thể:
- Yếu tố dân số và mức độ đô thị hóa: Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh hiện chỉ đạt 30,74%, một khoảng cách lớn so với mục tiêu 60,1% được nêu trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội (tuy nhiên theo dự thảo Nghị quyết phân loại đô thị chỉ yêu cầu 45%). Khoảng cách gần 30 điểm phần trăm này không thể được lấp đầy chỉ bằng tốc độ đô thị hóa tự nhiên mà đòi hỏi một sự thay đổi trạng thái mang tính đột phá kết hợp với các giải pháp chính sách mạnh mẽ về phát triển công nghiệp - thương mại - dịch vụ để thúc đẩy chuyển đổi xã thành phường, thu hút dân cư và lao động phi nông nghiệp dịch chuyển vào sống trong các đô thị.
- Hạ tầng và chất lượng đô thị:Hệ thống hạ tầng, mặc dù được quan tâm đầu tư, vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật khung (giao thông kết nối liên vùng, xử lý nước thải, rác thải), hạ tầng dữ liệu phục vụ chuyển đổi số, phát triển đô thị thông minh. Sự phát triển thiếu đồng bộ này đang cản trở việc đáp ứng các tiêu chí của đô thị văn minh, hiện đại và gây ra áp lực lớn lên tài nguyên và môi trường.
- Về cơ chế và quản lý: Thể chế, chính sách về đô thị còn thiếu đồng bộ, có sự phân tán và chồng chéo trong quản lý giữa các cơ quan nhà nước. Việc chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp cũng tạo ra một khoảng trống pháp lý và những thách thức trong việc phân loại, quản lý đô thị. Thiếu cơ chế đặc thù cũng là rào cản lớn trong việc chuẩn bị nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ đưa Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong thời gian ngắn hạn.
Từ hiện trạng phát triển trước khi sáp nhập và những hạn chế, thách thức nêu trên, ngành Xây dựng nhận thức rằng, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương bằng con đường bền vững, cần chuyển đổi tư duy phát triển từ chỗ dựa vào khai thác tài nguyên thô sang phát triển công nghiệp mũi nhọn kết hợp thúc đẩy dịch vụ du lịch - văn hóa, giải trí và sáng tạo. Quán triệt sâu sắc Báo cáo Chính trị Đại hội, quan điểm phát triển đô thị của tỉnh được xác lập trên các nền tảng cốt lõi lấy con người làm trung tâm; vì thế, quy hoạch đô thị phải có cách tiếp cận bao trùm, giải quyết hài hòa các vấn đề liên ngành, liên vùng, gìn giữ được các giá trị truyền thống, lịch sử.
Về mục tiêu trong Dự thảo Báo cáo Chính trị: Ngành Xây dựng xin góp ý và đề nghị điều chỉnh “Tỷ lệ đô thị hóa đạt 60,1%” thành “Tỷ lệ đô thị hóa đạt ≥ 45%” cho phù hợp với chỉ tiêu tối thiểu (45%) được Quốc hội đang xem xét quy định cho tiêu chí đô thị trực thuộc Trung ương và phù hợp tình hình thực tiễn đô thị hóa hiện tại (30,74%).
Để vượt qua những thách thức nêu trên và hiện thực hóa mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030; bám sát các nội dung trong dự thảo Nghị quyết Đại hội và các văn bản liên quan, ngành Xây dựng đề xuất cần có một số giải pháp mang tính đột phá như sau:
Một là, đột phá về quy hoạch: “Tái cấu trúc không gian, hình thành các đô thị chuyên ngành”
Hệ thống đô thị Ninh Bình mới được hợp nhất từ ba tỉnh cũ, trên cơ sở những quy hoạch riêng đã có trước đây, cần phải kế thừa và đặt lại trong tổng thể quy hoạch chung hiện nay để có thể mang lại một cấu trúc phát triển hoàn toàn mới, tạo ra một cực tăng trưởng mới, đột phá cho khu vực phía Nam đồng bằng Sông Hồng. Do vậy, nhiệm vụ cốt lõi đầu tiên là hoàn thành việc rà soát, lập điều chỉnh Quy hoạch tỉnh, lập Quy hoạch chung đô thị Ninh Bình đến năm 2050, tầm nhìn đến năm 2075 và phải thực hiện xong trong năm 2026 với lộ trình cụ thể để hiện thực hóa mục tiêu năm 2030 đạt các tiêu chí là thành phố trực thuộc Trung ương. Một quy hoạch tổng thể, tích hợp sẽ giải quyết được vấn đề thiếu tính đồng bộ giữa công nghiệp hóa, đô thị hóa và du lịch hóa.
Hai là, đột phá về phát triển hạ tầng: “Đa dạng hóa nguồn lực, ưu tiên hạ tầng chiến lược”
Hạ tầng được xác định là huyết mạch, là điều kiện tiên quyết để đạt được các mục tiêu phát triển. Tỉnh sẽ huy động và tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng chiến lược, đồng bộ và thông minh, kết nối nội vùng và liên vùng. Việc ưu tiên hoàn thiện các tuyến giao thông liên kết vùng như Vành đai 5, cao tốc Phủ Lý - Nam Định, đường chiến lược Nam Định - Hoa Lư sẽ giải quyết vấn đề thiếu liên kết nội tỉnh và thiếu kết nối với các trục kinh tế lớn.
Đặc biệt, là hoàn thiện quy hoạch và thúc đẩy xúc tiến đầu tư các công trình mang tầm quốc gia như sân bay và cảng biển nước sâu tại Khu kinh tế Ninh Cơ sẽ biến Ninh Bình từ một "vệ tinh" đơn thuần trở thành một "cực tăng trưởng" độc lập và có vị thế quốc tế, khắc phục hạn chế về thiếu đô thị cấp vùng. Hạ tầng giao thông mới sẽ mở ra những không gian, hành lang phát triển mới, thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn và hình thành các khu đô thị vệ tinh dọc theo các tuyến đường.
Ba là, đột phá về quản lý và thể chế:
Những quy định hiện hành không đủ để giải quyết những vấn đề đặc thù của một đô thị di sản và tạo ra đột phá. Do đó, việc xây dựng một cơ chế, chính sách vượt trội là hết sức cần thiết; giúp giải quyết hàng loạt điểm nghẽn về tài chính và thu hút đầu tư:
- Về tài chính: Cho phép giữ lại tỷ lệ cao hơn nguồn thu từ du lịch, công nghiệp và từ sử dụng đất để tái đầu tư. Áp dụng chính sách thuế ưu đãi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - sáng tạo.
- Về thu hút đầu tư: Ưu tiên và tập trung thu hút các tập đoàn công nghiệp sản xuất có công nghệ lõi công nghệ sạch đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh; tăng nguồn thu bền vững từ sử dụng đất cho dịch vụ, du lịch, công nghiệp sản xuất và công nghiệp giải trí, văn hóa. Mở rộng các cơ chế thu hút, hợp tác công - tư (PPP) trong đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng chiến lược, phát triển đô thị thông minh, đô thị xanh và các lĩnh vực về du lịch, văn hóa.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp đột phá về quy hoạch, hạ tầng, thể chế và phát triển đô thị di sản là lời giải cho bài toán phát triển bền vững, hiện đại, giàu bản sắc, truyền thống.
Để hiện thực hóa các mục tiêu và áp dụng các giải pháp nói trên, thay mặt ngành Xây dựng, tôi xin kiến nghị Đại hội một số nhiệm vụ cấp thiết cần làm ngay như sau:
1. Ưu tiên ban hành một Nghị quyết chuyên đề về phát triển đô thị, trong đó xác định rõ lộ trình và các mục tiêu cụ thể để đưa Ninh Bình đạt các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời xây dựng Đề án để trình Chính phủ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết riêng về “Xây dựng và phát triển thành phố Ninh Bình - đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo” với mục tiêu phát triển đô thị Ninh Bình vị trí và vai trò được khẳng định trong khu vực và quốc tế; trong đó được áp dụng chỉ tiêu cho đô thị đặc thù có di sản được UNESCO công nhận.
2. Xây dựng một cơ chế đặc thù, mang tính đột phá để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, du lịch, kinh tế biển và hạ tầng giao thông chiến lược, đô thị.
3. Thành lập Ban Chỉ đạo phát triển đô thị cấp tỉnh, với sự tham gia của các sở, ngành liên quan, nhằm chỉ đạo, điều phối và giám sát việc thực hiện các mục tiêu phát triển đô thị của tỉnh.
4. Tập trung chỉ đạo tổ chức rà soát, điều chỉnh quy hoạch tỉnh Ninh Bình xong trong năm 2025; Quy hoạch chung đô thị Ninh Bình và các quy hoạch chuyên ngành hạ tầng giao thông, hạ tầng số, hạ tầng môi trường xong trong năm 2026 với yêu cầu các quy hoạch phải đảm bảo tính đồng bộ và khả thi.
5. Triển khai đầu tư ngay các dự án hạ tầng chiến lược có tính chất lan tỏa, tạo động lực phát triển kết nối các trung tâm đô thị Hoa Lư - Phủ Lý - Nam Định, các trung tâm dịch vụ, công nghiệp, đô thị và công trình hạ tầng chiến lược; từng bước đầu tư công trình đầu mối hạ tầng cấp vùng, cấp Quốc gia (Cảng hàng không và cảng biển, các tuyến cao tốc, đường sắt kết nối với thủ đô Hà Nội).
6. Triển khai đầu tư ngay cho nâng cấp cơ sở hạ tầng khung đô thị, hạ tầng khung về xã hội (du lịch, hạ tầng y tế - giáo dục - văn hóa) theo các tiêu chí đô thị thành phố trực thuộc Trung ương.
Bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, Xây dựng phải là ngành đi tiên phong trong phát triển, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển, ngành Xây dựng tỉnh Ninh Bình sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, kỷ cương, đột phá, phát triển, bám sát các mục tiêu và nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I đề ra, góp phần cùng toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xây dựng tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương giàu mạnh, văn minh, hiện đại, có bản sắc riêng, và là một nơi đáng sống cho mọi người dân.
Với vai trò tiên phong tạo cơ sở hạ tầng nền tảng, ngành Xây dựng ý thức sâu sắc rằng việc quy hoạch và phát triển hạ tầng chiến lược không chỉ là công việc chuyên môn của ngành mà còn là sự cộng hưởng toàn hệ thống chính trị. Ngành xây dựng có cơ sở để tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong tỉnh, ngành Xây dựng khẳng định sẽ vượt qua những thách thức, hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm đề ra trong nhiệm kỳ 2025-2030.
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN PHƯỜNG PHỦ LÝ XANH, THÔNG MINH VÀ BỀN VỮNG; TRỌNG TÂM LÀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỒNG BỘ VÀ HẠ TẦNG THƯƠNG MẠI - DỊCH VỤ CHẤT LƯỢNG CAO, TẠO ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN KHU VỰC PHÍA BẮC CỦA TỈNH
(Tham luận của đồng chí Đào Đình Tùng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy phường Phủ Lý)
Đồng chí Đào Đình Tùng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy phường Phủ Lý.
... Phường Phủ Lý được thành lập từ ngày 1/7/2025 theo Nghị quyết số 1674/NQ‑UBTVQH15 ngày 16/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trên cơ sở sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và quy mô dân số của các phường Châu Cầu, Liêm Chính, Thanh Châu và một phần của phường Quang Trung. Phường có diện tích tự nhiên là 11,89 km2, dân số 62.893 người với 63 Tổ dân phố. Đảng bộ phường hiện có 141 tổ chức đảng với 5.491 đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ và Nhân dân phường Phủ Lý đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, sáng tạo, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn đấu, đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực. Kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tinh gọn bộ máy, triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, tạo nền tảng phát triển bền vững. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt kết quả toàn diện; kinh tế ổn định, tăng thu ngân sách; văn hóa - xã hội, an sinh, giáo dục, y tế, môi trường được chú trọng; quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội được giữ vững.
Với mục tiêu là tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là điều kiện, tiền đề quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong đó xác định phát triển thương mại - dịch vụ là ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương. Trong thời gian qua phường Phủ Lý đã thực hiện tốt công tác quy hoạch và quản lý đô thị, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, ưu tiên đầu tư các công trình trọng điểm, tạo điểm nhấn đô thị, các công trình về hạ tầng giao thông, cấp thoát nước, xử lý nước thải, rác thải và các công trình giáo dục, y tế... Một số công trình, dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả như: Dự án mở rộng đường 68m; Dự án xây dựng đơn nguyên 2 cầu Liêm Chính,… Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn, phường luôn chủ động phối hợp với các sở, ngành có liên quan và các Nhà đầu tư/Chủ đầu tư tập trung trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy nhanh tiến độ dự án.
Công tác giữ gìn trật tự, chỉnh trang đô thị, vệ sinh môi trường được quan tâm chỉ đạo, góp phần xây dựng cảnh quan đô thị sáng, xanh, sạch, đẹp. Trung tâm điều hành thông minh được đầu tư, nâng cấp, mở rộng với phần mềm phản ánh hiện trường (PhuLy-S), hệ thống camera an ninh, giám sát và camera xử phạt vi phạm giao thông tại các tuyến phố chính trên địa bàn góp phần giảm tai nạn giao thông và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn.
Các loại hình dịch vụ thiết yếu như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, bưu chính viễn thông, điện, cấp thoát nước… có bước phát triển mạnh mẽ, chất lượng phục vụ được nâng cao; Hệ thống các chợ, siêu thị được xây dựng, mở rộng, các chuỗi cửa hàng tiện ích được hình thành, tạo nên mạng lưới kinh doanh rộng rãi, đa dạng; Dịch vụ du lịch, lữ hành, khách sạn, nhà hàng,... được hình thành, phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng phục vụ. Công tác tuyên truyền thực hiện văn minh thương mại gắn với việc thực hiện Đề án “Xây dựng nếp sống văn minh đô thị trên địa bàn” được chú trọng, góp phần xây dựng hình ảnh của tỉnh đối với các nhà đầu tư, du khách trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ vừa qua, việc phát triển thương mại - dịch vụ trên địa bàn còn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương; hệ thống kết cấu hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông kết nối, các khu công viên cây xanh, hệ thống thoát nước và xử lý nước thải,… Nguyên nhân chủ yếu là: Công tác quản lý quy hoạch còn một số hạn chế; Tiến độ triển khai các dự án khu đô thị, trung tâm thương mại dịch vụ còn chậm; Công tác giải phóng mặt bằng để thu hút đầu tư còn gặp nhiều vướng mắc, kéo dài; Việc khai thác các nguồn lực đầu tư còn hạn chế, nhất là chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn đầu tư vào lĩnh vực thương mại - dịch vụ chất lượng cao.
Phát huy những lợi thế là phường trung tâm của khu vực phía Bắc tỉnh Ninh Bình, cũng như về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội, là đầu mối nhiều tuyến giao thông huyết mạch, với mục tiêu chung là xây dựng phường Phủ Lý trở thành trung tâm thương mại - dịch vụ chất lượng cao, là đô thị xanh, thông minh, phát triển bền vững, có môi trường đầu tư và môi trường sống chất lượng cao. Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong nhiệm kỳ tới, tôi xin đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, Đảng ủy phường tập trung lãnh đạo, chỉ đạo lập, hoàn thiện các quy hoạch và quản lý tốt quy hoạch trên địa bàn, đồng thời qủan lý và triển khai thực hiện các dự án đảm bảo tuân thủ quy hoạch xây dựng và thiết kế đô thị đã được phê duyệt. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị và quản lý kiến trúc trên các tuyến đường phố chính, nhằm tạo ra phong cách kiến trúc riêng, kết hợp hài hòa giữa các công trình kiến trúc xanh, hiện đại với công trình kiến trúc hiện hữu. Quy hoạch và phát triển các khu trung tâm thương mại, dịch vụ, các không gian, khu phố văn hóa, ẩm thực, các tuyến phố đi bộ,… trên địa bàn phường; Đặc biệt chú trọng đề xuất phương án chuyển đổi công năng các trụ sở cơ quan dôi dư sau sắp xếp thành các khu công viên cây xanh, điểm vui chơi giải trí, thể dục thể thao, bãi đỗ xe…
Nghiên cứu, đề xuất quy hoạch mở rộng không gian phát triển để kết nối, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu đô thị hiện hữu với các khu vực phát triển mới; thu hút đầu tư, đầu tư xây dựng hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển hệ thống đầu mối giao thông công cộng tại khu vực phía Nam Thủ đô Hà Nội cũng như khu vực phía Bắc của tỉnh với hệ thống các tuyến đường cao tốc, ga đường sắt tốc độ cao, cảng hàng không,… đồng bộ, hiện đại.
Hai là, Trên cơ sở quy hoạch của tỉnh và các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt, xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2025-2030 và từng năm để tổ chức thực hiện phù hợp với điều kiện kinh tế địa phương và tốc độ phát triển kinh tế chung của tỉnh. Tiếp tục rà soát, khai thác hiệu quả quỹ đất trên địa bàn, thu hút nhà đầu tư chiến lược đầu tư các dự án lớn, nhất là lĩnh vực thương mại - dịch vụ chất lượng cao.
Bên cạnh đó, tập trung thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị trên nguyên tắc đầu tư đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm mang tính thiết yếu, kết nối, lan tỏa, thúc đẩy đô thị hóa gắn với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong đầu tư xây dựng, cải tạo, chỉnh trang đô thị, góp phần mở rộng không gian đô thị, cụ thể: Đầu tư, cải tạo các khu công viên cây xanh; hệ thống chiếu sáng thông minh; hệ thống thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, thu gom xử lý chất thải rắn đô thị; Đầu tư mở rộng, bổ sung tiện ích Trung tâm điều hành đô thị thông minh phường; Đầu tư xây dựng hệ thống giám sát, quản lý kết cấu hạ tầng đô thị, đất đai, môi trường,… trên cơ sở áp dụng khoa học công nghệ hiện đại.
Ba là, Tập trung phát triển thương mại - dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển của phường. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững trên cơ sở phát huy thế mạnh và sử dụng hiệu quả nguồn lực của địa phương gắn liền với khai thác tối đa tiềm năng mối liên kết với các phường, xã trong tỉnh. Chủ động đề xuất danh mục dự án đầu tư trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ trên địa bàn, để quảng bá, thu hút đầu tư, tạo bước đột phá trong phát triển lĩnh vực thương mại - dịch vụ. Tập trung giải quyết các tồn tại vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án, nhất là các dự án trọng điểm như: Siêu thị Aeon, Khách sạn Phủ Lý, các khu thương mại dịch vụ và nhà ở hai bên tuyến đường Lê Duẩn, đường Lê Đức Thọ… để hình thành chuỗi dịch vụ - thương mại - khách sạn - nhà hàng trên địa bàn phường.
Mở rộng quy mô hoạt động, mạng lưới cung cấp dịch vụ công thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính công và quản lý đô thị; phát triển đa dạng, đồng bộ các loại hình dịch vụ vận tải; các loại hình kinh doanh thương mại điện tử, hiện đại.
Bốn là, Lãnh đạo, chỉ đạo, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án Khu đô thị, khu nhà ở, các dự án hạ tầng khung, hạ tầng kết nối trên địa bàn nhất là các dự án trọng điểm của quốc gia, của tỉnh như: Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam; Dự án đường 68m; Dự án cầu vượt đường sắt; Dự án bãi đỗ xe, cây xanh và các dự án khu đô thị, khu tái định cư trên địa bàn. Nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể; chú trọng công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về lợi ích và trách nhiệm trong quá trình xây dựng và phát triển phường Phủ Lý. Giữ vững sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước ở các cấp, các ngành, đoàn thể, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Năm là, Tăng cường liên kết, hợp tác với các địa phương trong và ngoài tỉnh, nhất là trong xử lý những vấn đề có tính chất liên xã, liên vùng (như phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, thương mại dịch vụ, bảo vệ môi trường,...); tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan Trung ương và của Tỉnh về thu hút, triển khai các dự án đầu tư, đề xuất ban hành các cơ chế, chính sách đột phá tạo điều kiện cho phường phát triển, mở rộng không gian, tạo công ăn việc làm, thu hút dân số cơ học, nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống của người dân, tiếp tục tạo động lực lớn và mới cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hạ tầng thương mại - dịch vụ chất lượng cao gắn với xây dựng đô thị Phủ Lý xanh, thông minh và bền vững góp phần đưa tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030.
Phát triển đô thị xanh, thông minh và bền vững không chỉ là trách nhiệm của chính quyền mà còn là sự chung tay của cả hệ thống chính trị và Nhân dân. Đảng ủy phường Phủ Lý sẽ quyết tâm hành động, đổi mới tư duy, nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy sức mạnh cộng đồng để xây dựng phường ngày càng xanh, thông minh và bền vững - góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP, TRỌNG TÂM LÀ CÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO, HIỆN ĐẠI, CÔNG NGHIỆP XANH VỚI NHIỀU SẢN PHẨM CHỦ LỰC CÓ SỨC CẠNH TRANH CAO, THAM GIA SÂU VÀO CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU
(Tham luận của đồng chí Phạm Hồng Sơn, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Công Thương)
Đồng chí Phạm Hồng Sơn, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Công Thương.
... Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra những định hướng chiến lược toàn diện cho sự phát triển công nghiệp của Việt Nam với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; trong đó xác định các mục tiêu quan trọng là: “Đến năm 2030: Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Để đạt được mục tiêu này, ngành công nghiệp phải có những bước tiến vượt bậc, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn và khả năng cạnh tranh cao, dựa trên những yếu tố cốt lõi: (i) Khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, đó là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0); (ii) Tăng cường liên kết: Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, hình thành các chuỗi cung ứng, giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài; (iii) Phát triển công nghiệp xanh và bền vững; (iv) Phát triển kinh tế biển.
Để thực hiện mục tiêu trên của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trong nhiệm kỳ qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các Nghị quyết, kế hoạch, đề án, chương trình thúc đẩy phát triển công nghiệp như: Nghị quyết về đẩy mạnh phát triển công nghiệp, trọng tâm là công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo và dịch vụ phục vụ phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững; Nghị quyết về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển đô thị văn minh hiện đại ; Nghị quyết về phát triển và quản lý khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết về xây dựng, phát triển vùng kinh tế biển; Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; các chương trình xúc tiến đầu tư, thương mại, công nghiệp hỗ trợ, khuyến công... và chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tổ chức thực hiện quyết liệt các giải pháp để phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Việc triển khai đồng bộ các giải pháp trên đã thu hút các dự án có quy mô và tổng mức đầu tư lớn, sử dụng công nghệ cao, hiện đại, thân thiện môi trường, ít phát thải khí nhà kính đến từ các Tập đoàn, doanh nghiệp lớn, thương hiệu toàn cầu đã và đang đi vào hoạt động, trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh, khẳng định vị thế mới trong chuỗi giá trị quốc gia và toàn cầu, như: Các dự án của Công ty cổ phần Sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam, Công ty Honda Việt Nam, Công ty TNHH Wistron Infocomm Việt Nam, Công ty TNHH QMH Computer, Công ty TNHH Mcnex Vina…
Bên cạnh đó, tỉnh đã chú trọng phát triển đồng bộ, hiện đại hạ tầng các KKT, KCN, CCN trên địa bàn theo các Quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050: Toàn tỉnh có 53 KCN, 01 KKT và 117 CCN với tổng diện tích 32.462 ha, trong đó KKT Ninh Cơ được định hướng phát triển thành KKT ven biển tổng hợp, đa ngành, đa chức năng với cơ sở hạ tầng đồng bộ, là trung tâm kinh tế biển của tỉnh, đã thu hút một số dự án lớn như: Nhà máy Thép xanh số 1 Xuân Thiện Nam Định; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN Rạng Đông... và 20 KCN, 43 CCN đã đi vào hoạt động, thu hút 2.185 dự án thứ cấp, bao gồm: 561 dự án FDI và 1.624 dự án trong nước. Nhiều doanh nghiệp trong các KCN, CCN đã tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu qua liên doanh, liên kết, gia tăng lợi ích phía Việt Nam trong hội nhập, điển hình là Liên doanh giữa Tập đoàn Hyundai (Hàn Quốc) và Tập đoàn Thành Công (Việt Nam). Các doanh nghiệp đã coi trọng đầu tư, ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong nhiệm kỳ qua, ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn một số khó khăn, hạn chế sau:
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp chủ yếu dựa vào đầu tư theo chiều rộng; giá trị sản xuất sản phẩm công nghiệp công nghệ sạch, công nghệ cao còn thấp.
- Một số doanh nghiệp trong nước chưa chú trọng việc đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nên công nghệ, trang thiết bị còn hạn chế, hiệu quả sử dụng tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng thấp, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường chưa cao.
- Số lượng dự án công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp xanh,có giá trị đầu tư lớn còn khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước để hình thành chuỗi cung ứng, tạo động lực phát triển cho doanh nghiệp địa phương đã và đang được hình thành, tuy nhiên cần được tăng cường hơn nữa.
- Chất lượng nguồn nhân lực còn chưa toàn diện, thiếu hụt đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao.
* Nguyên nhân của những hạn chế đó là:
- Phát triển công nghiệp nói chung và phát triển công nghiệp công nghệ cao, hiện đại, công nghiệp xanh trên địa bàn tỉnh được đặt trong trong bối cảnh kinh tế cả nước đã có nhiều thay đổi tích cực, tuy nhiên ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, xung đột quốc tế kéo dài, suy giảm kinh tế và biến động thị trường làm tăng lượng hàng tồn kho, doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn.
- Các yếu tố hỗ trợ cho phát triển công nghiệp sạch, công nghệ cao gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp còn yếu về nguồn lực, hạn chế về nguồn nguyên liệu, hoạt động đổi mới và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp còn chậm, dẫn đến chất lượng, hiệu quả, tính cạnh tranh của sản phẩm chưa cao.
- Các chính sách để thu hút, phát triển công nghiệp hỗ trợ chưa tạo được thế mạnh để thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư lớn, dự án sản xuất có công nghệ hiện đại, thông minh, công nghệ xanh, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
- Cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để đào tạo và thu hút nhân tài, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Để thực hiện tốt định hướng phát triển công nghiệp của tỉnh được nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội: “Thúc đẩy phát triển công nghiệp hiện đại, thông minh, xanh hóa, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu với nhiều sản phẩm công nghiệp chủ lực có sức cạnh tranh cao”, tôi xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển công nghiệp trong nhiệm kỳ 2025 - 2030 như sau:
Thứ nhất, phát triển công nghiệp công nghệ cao, hiện đại: Tỉnh cần tập trung thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên các ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại, công nghiệp hỗ trợ sử dụng ít tài nguyên, khoáng sản; các dự án sản xuất linh kiện điện tử, bán dẫn, cơ khí chính xác, sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, dược phẩm và vật liệu mới,... Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp trong tỉnh đẩy mạnh chuyển đổi số, áp dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất, quản trị và logistics, hình thành hệ sinh thái công nghiệp thông minh.
Thứ hai, thúc đẩy công nghiệp xanh và bền vững: Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi các dự án sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng tiết kiệm, giảm phát thải carbon; đẩy mạnh mô hình “khu công nghiệp sinh thái, cụm công nghiệp xanh”, gắn phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường, phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn di sản. Đây không chỉ là yêu cầu tất yếu của thời đại, mà còn là lợi thế riêng có để tỉnh tạo dựng thương hiệu công nghiệp xanh, thân thiện với thiên nhiên.
Thứ ba, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu: Tỉnh cần tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực như ô tô, xe máy, điện tử, cơ khí, đóng tàu, vật liệu xây dựng xanh, các sản phẩm công nghiệp phụ trợ và sản phẩm chế biến nông sản sạch; đồng thời phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ lao động kỹ thuật cao, gắn đào tạo nghề với nhu cầu doanh nghiệp. Có nhiều sản phẩm công nghiệp đạt chuẩn quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa ngành công nghiệp Ninh Bình tham gia sâu vào chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu.
Thứ tư, hoàn thiện hạ tầng công nghiệp đồng bộ, hiện đại: Tỉnh cần tiếp tục quy hoạch, đầu tư hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với hệ thống giao thông chiến lược, sân bay, cảng biển và logistics. Đặc biệt, phải phát triển hạ tầng số, trung tâm dữ liệu, các nền tảng kết nối thông minh để doanh nghiệp dễ dàng tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Thứ năm, xây dựng chính quyền kiến tạo, đồng hành cùng doanh nghiệp: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư, phát huy tinh thần “chính quyền phục vụ”. Bên cạnh đó, đẩy mạnh liên kết vùng, hợp tác quốc tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong tỉnh tham gia vào mạng lưới sản xuất và tiêu thụ toàn cầu.
Với tầm nhìn đến năm 2030, Ninh Bình hoàn toàn có thể trở thành một cực tăng trưởng công nghiệp xanh, hiện đại khu vực phía Bắc, có nhiều sản phẩm công nghiệp chủ lực mang thương hiệu quốc gia và quốc tế. Muốn vậy, chúng ta cần sự đồng lòng, quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc mạnh mẽ của hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, sự đoàn kết ủng hộ của nhân dân toàn tỉnh.
XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HAI CẤP ĐỒNG BỘ, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ, KIẾN TẠO, PHÁT TRIỂN
(Tham luận của đồng chí Bùi Văn Hoàng, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nội vụ)
Đồng chí Bùi Văn Hoàng, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nội vụ
... Trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội: Từ ngày 1/7/2025, mô hình chính quyền địa phương hai cấp chính thức đi vào vận hành trên cả nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của tiến trình cải cách thể chế và tổ chức lại bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Thời điểm này đánh dấu sự thay đổi về cấu trúc hành chính trong lịch sử đất nước. Việc xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp (gồm cấp tỉnh và cấp xã, không tổ chức cấp huyện), với mục đích kiến tạo một nền hành chính công hiện đại, hiệu lực, hiệu quả vì mục tiêu phát triển đất nước giàu đẹp, văn minh, cuộc sống của Nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Với chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước về xây dựng chính quyền địa phương hai cấp, có thể khẳng định đây là chủ trương hết sức đúng đắn, phù hợp đáp ứng yêu cầu đòi hỏi mới của thực tiễn, của thời đại công nghệ và hội nhập
Thứ nhất, cùng với việc cải cách tinh gọn tổ chức bộ máy hành chính tại Trung ương thì việc tiếp tục cải cách, đổi mới ở cấp địa phương là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống hành chính nhà nước.
Thứ hai, chủ trương tổ chức lại chính quyền địa phương theo mô hình xây dựng chính quyền hai cấp đã nhận được sự đồng thuận cao của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, là cơ sở vững chắc cho quá trình triển khai.
Thứ ba, từ thực tiễn sau hơn 80 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhất là những thành tựu quan trọng đạt được trong thời kỳ đổi mới, chúng ta đã có điều kiện: từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội đến năng lực quản trị của đội ngũ cán bộ để có thể triển khai thực hiện mô hình này. Nhất là, trong bối cảnh đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên phát triển của dân tộc Việt Nam, việc tổ chức lại chính quyền địa phương là yêu cầu tất yếu nhằm thiết lập nền hành chính kiến tạo, hiện đại, gần dân và phục vụ tốt hơn.
Mặt khác, cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số, mô hình chính quyền địa phương hai cấp là cấu trúc hành chính phù hợp để đáp ứng hiệu quả các yêu cầu mới của thời đại công nghệ và hội nhập. Mô hình chính quyền địa phương hai cấp mở ra nhiều triển vọng tích cực. Các quyết sách từ cấp tỉnh sẽ được truyền dẫn trực tiếp đến cấp xã - cấp gần dân nhất, hiểu dân nhất - nơi trực tiếp xử lý các vấn đề cụ thể như đất đai, hộ tịch, an sinh xã hội… Điều này sẽ rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp.
Từ thời điểm ngày 1/7/2025, sau quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng và tổ chức thực hiện đồng bộ, mô hình chính quyền địa phương hai cấp chính thức triển khai tại 34 tỉnh, thành phố và 3.321 đơn vị hành chính cấp xã trên cả nước. Cùng với đó, tỉnh Ninh Bình (mới) trên cơ sở hợp nhất của 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình (cũ), với 129 đơn vị cấp xã cũng chính thức bước vào vận hành theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Trong bối cảnh khối lượng công việc lớn, thời gian gấp, đối tượng tác động rộng. Việc vận hành chính quyền địa phương hai cấp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, mang tính nền tảng, khẳng định sự đúng đắn trong chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính và đổi mới tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Về tổ chức bộ máy, đã hoàn thành việc sắp xếp kiện toàn Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh và các xã, phường; hoàn thành việc thành lập cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập cấp tỉnh và cấp xã. Hầu hết các cơ quan, tổ chức đơn vị đã được bố trí đầy đủ cán bộ, công chức giữ chức danh lãnh đạo quản lý trực tiếp để điều hành hoạt động ngay sau khi vận hành chính quyền địa phương hai cấp. Ngay sau khi kiện toàn tổ chức bộ máy, các cơ quan đơn vị đều khẩn trương đi vào hoạt động, không làm gián đoạn công việc. Công tác giải quyết thủ tục hành chính, phục vụ người dân, doanh nghiệp được quan tâm chỉ đạo sát sao; số lượng hồ sơ trực tuyến gia tăng.
Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các sở, ngành tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, thường xuyên liên tục; kịp thời hỗ trợ, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện tại các xã, phường. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững; không phát sinh các vấn đề lớn, phức tạp; chính quyền từ tỉnh đến cấp xã quyết liệt trong hoạt động chỉ đạo, điều hành; đội ngũ cán bộ, công chức tại các địa phương nỗ lực thực hiện nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy, người dân và doanh nghiệp cơ bản đánh giá cao về kết quả vận hành chính quyền địa phương hai cấp; tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi căn bản, việc xây dựng vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp đảm bảo đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo, phát triển cũng đặt ra không ít thách thức. Nhất là trong giai đoạn đầu, giai đoạn chuyển tiếp. Vì vận hành mô hình tổ chức mới là một việc rất hệ trọng, chưa từng có tiền lệ, phức tạp, với tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng” nên không tránh khỏi những lúng túng, khó khăn, như:
Về chất lượng nguồn nhân lực: mô hình mới đòi hỏi năng lực lãnh đạo, quản lý cao hơn từ đội ngũ cán bộ địa phương nên việc tổ chức và vận hành bộ máy thời gian đầu vẫn còn những lúng túng, khó khăn, vướng mắc, nhất là vấn đề về sắp xếp tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức. Một số nơi còn thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, tài chính, xây dựng,… Nhiều cán bộ, công chức làm việc tại cấp xã chưa nắm rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn; hạn chế về kỹ năng nghiệp vụ nên có thể có hiện tượng né tránh trách nhiệm hoặc xử lý máy móc, thiếu linh hoạt.
Về công tác chuyển đổi số: việc đồng bộ các hệ thống xử lý văn bản điện tử của các đơn vị hành chính trước sắp xếp (do khác biệt về phần mềm, cấu hình…); Việc đồng bộ giữa Cổng dịch vụ công Quốc gia với hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của các Bộ, các địa phương chưa hoàn thiện, hệ thống đường truyền chưa ổn định nên có thể dẫn đến quá tại cục bộ tại một số thời điểm. Có thời điểm, sự trục trặc trong kết nối, liên thông dữ liệu giữa cấp xã và các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cũng dẫn đến việc giải quyết chậm trễ các thủ tục cho người dân và doanh nghiệp.
Về thực hiện các nhiệm vụ phân cấp, phân quyền: Các nhiệm vụ, quyền hạn lần đầu tiên được phân cấp, phân quyền từ cấp trên, trong đó có các nhiệm vụ từ cấp huyện trước đây, nên một số chính quyền địa phương cấp xã còn lúng túng hoặc phải rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh để điều chỉnh cho phù hợp. Về trụ sở làm việc và các điều kiện làm việc theo mô hình mới cũng còn nhiều khó khăn.
Ngoài ra vẫn còn tồn tại tâm lý chờ đợi vào sự chỉ đạo, hướng dẫn, điều phối của cấp trên, khiến bộ máy cấp xã hoạt động còn thụ động, thiếu sáng tạo; tâm lý trong một số cán bộ còn băn khoăn trước khối lượng công việc, áp lực công việc mà mình phải đảm nhận;..
Từ thực tiễn vận hành bộ máy chính quyền địa phương hai cấp trên địa bàn tỉnh từ ngày 1 tháng 7 năm 2025 đến nay cho thấy: Việc xây dựng và vận hành chính quyền địa phương hai cấp không chỉ là sự kiện về mặt hành chính, mà là bước thay đổi căn bản, là đòi hỏi tất yếu khách quan vì mục tiêu và động lực phát triển của đất nước; là sự chuyển dịch mạnh mẽ trong tư duy tổ chức quyền lực Nhà nước. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình ban đầu vận hành chính quyền địa phương hai cấp chủ yếu mang tính kỹ thuật, đang được tích cực tháo gỡ, giải quyết kịp thời. Đây là tiền đề quan trọng để tiếp tục hoàn thiện thế chế, chuyển từ mô hình chính quyền quản lý hành chính sang mô hình chính quyền kiến tạo, phát triển, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Để chính quyền địa phương hai cấp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hoạt động đảm bảo đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả, làm tốt nhiệm vụ kiến tạo phát triển. Theo chúng tôi, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, trong giai đoạn tái cấu trúc không gian hành chính sau sáp nhập, hợp nhất, yêu cầu tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong hệ thống chính trị càng trở nên cấp thiết. Đoàn kết là cội nguồn của sức mạnh; là yếu tố quyết định sự thành công của mọi cuộc cải cách. Đoàn kết để cùng hướng về lợi ích chung để vượt qua những khác biệt địa giới hành chính, tập quán vùng miền và cùng nhau xây dựng một chính quyền vì dân, do dân và phục vụ dân. Đúng như tinh thần của Chủ đề báo cáo chính trị trình tại Đại hội: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết, chung sức xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh;... với phương châm: “Đoàn kết - Trách nhiệm - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”.
Hai là, yếu tố then chốt quyết định sự thành công của mô hình chính quyền địa phương hai cấp chính là đội ngũ cán bộ, công chức. Trong bối cảnh mới, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là ở cấp xã cần được bồi dưỡng về tư duy kiến tạo, thái độ phục vụ, kỹ năng xử lý tình huống, tinh thần trách nhiệm và đạo đức công vụ. Cần chuyển mạnh từ tư duy “quản lý” sang tư duy “phục vụ”, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo hiệu quả thực thi công vụ.
Mô hình mới nhấn mạnh nguyên lý “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; tăng cường trách nhiệm giải trình, minh bạch; hiện thực hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đồng thời, mô hình chính quyền địa phương hai cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân cấp, phân quyền sâu rộng hơn, theo đúng tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Vì vậy, việc chuẩn hóa chức danh, vị trí việc làm ở cấp xã cần được ưu tiên hàng đầu, bảo đảm mỗi cán bộ đều có vị trí cụ thể, mô tả công việc rõ ràng và quy trình đánh giá gắn với sản phẩm công vụ thực tế.
Bên cạnh đó, công tác điều động, luân chuyển cán bộ cần được rà soát toàn diện, cần đánh giá đúng năng lực cá nhân và nhu cầu cụ thể của từng địa phương để có sự điều động phù hợp. Đồng thời, yêu cầu về nâng cao năng lực số và đạo đức công vụ trở nên cấp thiết trong bối cảnh chính quyền số đang là xu thế tất yếu. Cán bộ cấp xã không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ nếu thiếu kiến thức về quản trị điện tử, sử dụng thành thạo phần mềm hành chính, hay không cập nhật các quy định mới về dịch vụ công. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần tập trung vào kỹ năng thực hành, đạo đức công vụ và văn hóa phục vụ Nhân dân; ưu tiên cập nhật kiến thức về pháp luật, thủ tục hành chính, công nghệ thông tin;…
Ba là, một vấn đề quan trọng khác là cần phải chú trọng việc hướng dẫn cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn cấp xã trong mô hình mới. Nhất là việc quy định cơ chế phối hợp với các sở, ngành cấp tỉnh, không để xảy ra tình trạng công việc bị chồng chéo, không rõ trách nhiệm, để bảo đảm “một việc - một đầu mối - một người chịu trách nhiệm”, không để người dân phải đi lại nhiều nơi để giải quyết cùng một thủ tục. Cùng với đó là tăng cường trách nhiệm giải trình, kiểm tra, giám sát theo hướng công khai và có chế tài ràng buộc.
Bốn là, chú trọng việc thiết lập cơ chế kiểm tra - giám sát chéo giữa cấp tỉnh và cấp xã là hết sức cần thiết nhằm tăng tính minh bạch, phòng ngừa tình trạng đùn đẩy hoặc lạm quyền. Phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể để tăng tính khách quan trong đánh giá và kiểm tra, nhất là giám sát việc sắp xếp tổ chức, tuyển chọn cán bộ tại cơ sở, vừa để bảo đảm dân chủ, vừa phát hiện sớm những sai phạm tiềm ẩn.
Năm là, đặc biệt, việc xây dựng niềm tin, tạo quyết tâm cao trong toàn xã hội là yếu tố căn cốt quyết định sự thành công của mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Vì vậy, công tác truyền thông cần đi trước một bước. Tuyên truyền không chỉ dừng ở việc “thuyết phục”, mà cần chuyển thành “đối thoại”, tạo diễn đàn để cán bộ và nhân dân cùng trao đổi, phản hồi. Lắng nghe ý kiến phản biện xã hội cần phải được thể chế hóa thành kênh bắt buộc trong quy trình hoạch định, điều chỉnh chính sách.
Chính quyền cấp xã cần nỗ lực thể hiện uy tín bằng những hành động cụ thể: Giải quyết thủ tục hành chính nhanh, công khai phản hồi người dân, minh bạch hóa quy trình phân bổ nguồn lực. Khi người dân cảm nhận được sự phục vụ công tâm, trách nhiệm, mô hình chính quyền địa phương hai cấp mới thật sự đi vào đời sống thực hiện được mục tiêu kiến tạo, phát triển.
Triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp là một bước đi đúng hướng trong tiến trình cải cách hành chính, phù hợp yêu cầu xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, một chính sách dù đúng đến đâu cũng không thể thành công nếu khâu tổ chức thực hiện còn thiếu đồng bộ, thiếu thực tiễn. Để mô hình chính quyền địa phương hai cấp phát huy hiệu quả đúng với tinh thần cải cách tổ chức bộ máy hành chính, cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp từ Trung ương đến cơ sở, nhất là các nhiệm vụ giải pháp của nhiệm kỳ 2025 2030 được Đại hội Đảng bộ tỉnh xác định, bảo đảm ba trụ cột: Chính sách đúng - tổ chức phù hợp và sự đồng thuận của người dân.
Chúng tôi tin tưởng rằng, việc xây dựng và vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình với những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể xác định trong báo cáo chính trị trình tại Đại hội sẽ tạo nên bộ máy hành chính tinh gọn hơn, hiệu quả hơn; gần dân, sát dân hơn và phục vụ Nhân dân tốt hơn với mục tiêu kiến tạo, phát triển sẽ thực hiện thật tốt các quan điểm phát triển: theo định hướng “lấy dân làm gốc” để người dân vừa là chủ thể, vừa là trung tâm trong mọi quyết sách phát triển; Khơi thông, giải phóng mạnh mẽ các nguồn lực phát triển.
Cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống từ tỉnh tới các xã, phường phải liêm chính, tận tụy, công khai, minh bạch, giải quyết công việc nhanh chóng, hiệu quả, từ đó góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Bộ máy chính quyền các cấp và triển vọng phát triển bền vững của Quê hương - Đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA TRỞ THÀNH CỤM NGÀNH KINH TẾ MŨI NHỌN, GIẢI PHÁP TẠO DỰNG THƯƠNG HIỆU DU LỊCH NINH BÌNH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
(Tham luận của đồng chí Bùi Văn Mạnh, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Du lịch)
Đồng chí Bùi Văn Mạnh, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Du lịch.
... Trước hết, chúng ta cần xác định rõ tầm nhìn chiến lược và bối cảnh lịch sử-nền tảng cho sự phát triển của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Hội nhập quốc tế đã và đang mở ra những cơ hội chưa từng có, vì thế việc xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch trở thành nhiệm vụ chiến lược quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của địa phương trên bản đồ du lịch quốc gia và quốc tế. Để phát triển, chúng ta không thể đi theo lối mòn, mà phải có tầm nhìn chiến lược, nhận diện đúng tiềm năng, lợi thế của mình.
Tỉnh Ninh Bình sau khi sáp nhập không chỉ mở rộng về địa lý, mà còn là sự kết hợp nguồn lực, văn hóa và lợi thế kinh tế, tạo hiệu ứng cộng hưởng mạnh mẽ. Vùng đất Cố đô nghìn năm giờ đây được tiếp thêm sức sống từ sự hội tụ của ba miền đất: sự hùng vĩ của núi rừng và di sản văn hóa Hoa Lư - Tam Điệp, sự phì nhiêu, trù phú của đồng bằng Sông Hồng và bao la của biển cả.
Một Ninh Bình mới, với diện tích gần 4.000km2 và dân số 4,4 triệu người, đã trở thành một bức tranh thu nhỏ của đất nước: có cả núi non, sông hồ, rừng già, và biển cả. Ninh Bình có Di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An - nơi hội tụ dấu ấn của hơn 30.000 năm lịch sử loài người; có hơn 5.000 di tích lịch sử, văn hóa, trong đó nhiều di tích gắn liền với các triều đại Đinh-Tiền Lê-Lý-Trần; có hệ sinh thái đa dạng với núi non hùng vĩ, hang động xuyên thủy kỳ ảo, đồng bằng màu mỡ, rừng nguyên sinh, vườn quốc gia, vùng đất ngập nước, suối khoáng nóng; có kho tàng văn hóa tín ngưỡng độc đáo gắn với các lễ hội dân gian đặc sắc, ẩm thực phong phú mang đậm bản sắc vùng châu thổ, hệ thống làng nghề thủ công truyền thống với các sản phẩm OCOP.
Tất cả những giá trị lịch sử, văn hóa, cảnh quan, tâm linh và sinh thái ấy đã tạo nên nền tảng vững chắc, là cơ sở để xây dựng thương hiệu du lịch Ninh Bình có tầm vóc quốc tế, khác biệt và độc đáo. Nguồn lực to lớn này chính là điểm tựa vững chãi để phát triển kinh tế di sản, du lịch, xây dựng công nghiệp văn hóa quy mô có khả năng kết nối liên vùng và vươn tầm thế giới - phù hợp với định hướng tăng trưởng bền vững, lấy di sản làm trọng tâm, văn hóa làm động lực và con người làm chủ thể sáng tạo nhằm hiện thực hóa mục tiêu trở thành "đô thị di sản, thành phố sáng tạo", trung tâm du lịch - văn hóa tầm khu vực và quốc tế.
Trên nền tảng giá trị lịch sử, văn hóa và thiên nhiên đặc sắc đó, vấn đề mấu chốt đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo dựng một thương hiệu du lịch Ninh Bình trong không gian phát triển mới. Tiềm năng mới cần một tư duy mới, một cách làm mới. Thương hiệu du lịch Ninh Bình không chỉ dừng lại ở việc quảng bá hình ảnh một vùng đất có cảnh quan hùng vĩ, di sản nổi bật toàn cầu, tiềm năng du lịch đa dạng, phong phú mà còn phải trở thành biểu tượng của sự hài hòa giữa bảo tồn, phát triển và hội nhập quốc tế. Nếu chúng ta chỉ tiếp tục phát triển manh mún, thiếu kết nối, chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ vàng. Vấn đề cốt lõi hiện nay là làm thế nào để xây dựng một thương hiệu tỉnh mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng và lan tỏa toàn cầu.
Thương hiệu điểm đến du lịch không chỉ được định hình từ di sản, hệ sinh thái, bản sắc cộng đồng, từ những yếu tố hữu hình như cơ sở vật chất, sản phẩm du lịch, mà còn được nuôi dưỡng từ những giá trị vô hình, mang tính quyết định như: môi trường du lịch văn minh, an toàn, văn hóa ứng xử thân thiện và đặc biệt là lòng hiếu khách, chân thành của người dân địa phương. Trên cơ sở này, Ninh Bình đã và đang xây dựng hình ảnh điểm đến toàn cầu - nơi du lịch không chỉ mang lại giá trị kinh tế, thu hút, kêu gọi đầu tư, giao lưu văn hóa, mà còn lan tỏa những giá trị nhân văn của đất và người Ninh Bình đến bạn bè quốc tế.
Xác định được vấn đề cốt lõi mới chỉ là bước khởi đầu. Để biến tiềm năng thành lợi thế cạnh tranh, và để thương hiệu du lịch Ninh Bình thực sự tỏa sáng, chúng ta cần có những giải pháp đột phá, được khởi nguồn từ chính các giá trị nội hàm bên trong chiều sâu lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên mà Ninh Bình đang sở hữu.Tôi xin đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá sau:
Một là, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp; nghiên cứu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ đặc thù, đủ sức thu hút, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch - công nghiệp văn hóa. Ngay sau Đại hội, ngành Du lịch sẽ tập trung tham mưu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển du lịch và công nghiệp văn hóa trở thành cụm ngành kinh tế mũi nhọn, với các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, thiết thực. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành xây dựng kế hoạch hành động chi tiết, phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan, đơn vị và cá nhân, đồng thời tổ chức giám sát, đánh giá định kỳ đảm bảo thực hiện hiệu quả.
Hai là, rà soát, tổ chức lại không gian phát triển du lịch và công nghiệp văn hóa phù hợp với đơn vị hành chính mới; điều chỉnh, bổ sung định hướng phát triển du lịch - công nghiệp văn hóa trong Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, bảo đảm gắn kết với chiến lược quốc gia và liên kết vùng. Thu hút đầu tư vào các khu sáng tạo đô thị mới gắn với không gian làng nghề, cộng đồng, khu sinh thái, nhằm kết hợp phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo địa phương.
Ba là, xây dựng thương hiệu du lịch - công nghiệp văn hóa tỉnh Ninh Bình đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Cần tiếp tục định vị và phát triển thương hiệu điểm đến du lịch của tỉnh gắn với các giá trị "Thiên nhiên - Di sản - Văn hóa - Lịch sử - Tâm linh - Cộng đồng”; lấy Quần thể danh thắng Tràng An làm trung tâm động lực, vừa là lõi bảo tồn, vừa là đầu mối kết nối các không gian du lịch của cả vùng theo các trục chiến lược. Thương hiệu phải trở thành định hướng cho mọi hoạt động phát triển du lịch, văn hóa, dịch vụ, từ quy hoạch không gian, xây dựng sản phẩm, nâng cao trải nghiệm của du khách đến xúc tiến quảng bá quốc tế đều phải có “một tiếng nói chung”, một câu khẩu hiệu ấn tượng và một bộ nhận diện đồng bộ trên mọi kênh truyền thông, ứng dụng nền tảng số và mạng xã hội.
Chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan mở rộng thị trường khách, tổ chức các chương trình roadshow, hội chợ, famtrip, presstrip trong và ngoài nước. Đồng thời, phát triển nội dung quảng bá đa ngôn ngữ, đa nền tảng, gắn kết chặt chẽ giữa du lịch với điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật trình diễn nhằm tạo dấu ấn khác biệt và nâng cao sức cạnh tranh trên bản đồ du lịch quốc tế.
Bốn là, xây dựng nguồn nhân lực và văn hóa ứng xử: Cần có một chương trình đào tạo/đào tạo lại bài bản, chuyên nghiệp cho đội ngũ nhân lực du lịch ở tất cả các cấp, từ hướng dẫn viên, cán bộ quản lý, lao động phục vụ, cho tới cộng đồng dân cư tham gia hoạt động du lịch. Xây dựng văn hóa ứng xử du lịch Ninh Bình- nơi mỗi người dân trở thành một “đại sứ du lịch”, mang đến cho du khách sự hiếu khách, chân thành, an toàn và văn minh. Văn hóa ứng xử tốt không chỉ tạo ấn tượng sâu sắc, khiến du khách muốn quay trở lại, mà còn góp phần lan tỏa thương hiệu điểm đến thân thiện, chuyên nghiệp, đẳng cấp quốc tế.
Năm là, tăng cường chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo: Tập trung số hóa di sản và không gian văn hóa, triển khai chương trình số hóa du lịch - công nghiệp văn hóa với các hạng mục: siêu ứng dụng du lịch - công nghiệp văn hóa, bản đồ số thông minh, hệ thống bảo tàng số, không gian di sản ảo và du lịch đa giác quan, nhằm nâng cao trải nghiệm cá nhân hóa, quảng bá toàn cầu và thương mại hóa giá trị di sản. Phát triển đồng bộ hệ sinh thái du lịch - công nghiệp văn hóa thông minh gắn với hạ tầng số và cơ sở dữ liệu liên ngành; phát huy vai trò động lực của du lịch - công nghiệp văn hóa đối với tăng trưởng xanh và hội nhập toàn cầu.
Sáu là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng hệ sinh thái văn hóa - du lịch - sáng tạo toàn diện. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự bền bỉ, nỗ lực, đồng hành trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ và vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng địa phương và doanh nghiệp trong toàn tỉnh để triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp xây dựng ngành du lịch và công nghiệp văn hóa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển du lịch và công nghiệp văn hóa trở thành cụm ngành kinh tế mũi nhọn không chỉ là mục tiêu chiến lược mà còn là cách để Ninh Bình khẳng định vị thế trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.Với lợi thế di sản văn hóa - thiên nhiên độc đáo - truyền thống lịch sử lâu đời, cùng với sự năng động, sáng tạo của người dân, chúng ta có đầy đủ điều kiện để tạo dựng một thương hiệu mạnh mẽ, khác biệt, vươn tầm khu vực và thế giới.
Với tinh thần “Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp vận hành và nhân dân đồng hành, ủng hộ”, chúng tôi tin tưởng Ninh Bình sẽ trở thành địa phương “Hội tụ di sản - Lan tỏa bản sắc - Vươn tầm quốc tế” để du lịch, công nghiệp văn hóa thực sự trở thành động lực tăng trưởng xanh, bền vững, góp phần xây dựng tỉnh Ninh Bình giàu đẹp, văn minh, hiện đại.
CÁC GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM, ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
(Tham luận của đồng chí Nguyễn Tiến Dũng, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo)
Đồng chí Nguyễn Tiến Dũng, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo.
... Giáo dục và Đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước xác định là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, cùng với sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, các em học sinh và sự đồng thuận của toàn xã hội, ngành Giáo dục tỉnh nhà đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ: Quy mô trường lớp được phát triển phù hợp, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của Nhân dân; chất lượng phổ cập giáo dục các cấp học được duy trì vững chắc và nâng cao; chất lượng giáo dục phổ thông có nhiều tiến bộ vượt bậc, thể hiện qua kết quả thi tốt nghiệp THPT, thi học sinh giỏi quốc gia luôn trong nhóm dẫn đầu cả nước; cơ sở vật chất trường học được đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố, chuẩn hóa với tỷ lệ phòng học kiên cố đạt gần 99%, tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia đạt 96%; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, đa số đều tâm huyết, tận tụy với nghề, có kỹ năng nghề nghiệp cao.
Bên cạnh những kết quả đó, ngành Giáo dục cũng thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, hạn chế: Chất lượng giáo dục, đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc liên kết giữa đào tạo và thị trường lao động chưa thực sự chặt chẽ. Đội ngũ giáo viên thiếu cục bộ, mất cân đối môn học theo chương trình GDPT 2018. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học còn hạn chế, chuyển đổi số chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng. Cơ chế, chính sách giáo dục còn chậm điều chỉnh, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới.
Quán triệt sâu sắc tinh thần chỉ đạo của Trung ương, đặc biệt là các định hướng chiến lược tại Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22 tháng 8 năm 2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, bước vào nhiệm kỳ 2025-2030, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh xác định cần tập trung thực hiện 05 nhóm giải pháp trọng tâm, đột phá phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh, cụ thể:
Một là, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thực sự là "lực lượng tinh nhuệ", là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Thực tiễn đã chứng minh, muốn có trò giỏi, trước hết phải có thầy giỏi và tâm huyết. Ngành xác định đây là nhiệm vụ "then chốt của then chốt". Ngành sẽ tham mưu cho tỉnh có cơ chế ưu tiên tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc, đặc biệt là các em từng là học sinh trường chuyên hoặc đạt giải quốc gia, quốc tế; đổi mới công tác tuyển dụng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên theo hướng công khai, minh bạch, dựa trên năng lực thực chất. Cùng với đó, ngành sẽ khuyến khích giáo viên có năng lực đi đào tạo các chương trình thạc sĩ, tiến sĩ; tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia và các địa phương có nền giáo dục phát triển.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ chương trình, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Đây là giải pháp tác động trực tiếp đến chất lượng dạy và học, nhằm chuyển đổi căn bản từ giáo dục truyền thụ kiến thức sang giáo dục phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Ngành sẽ tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, đẩy mạnh các phương pháp dạy học tích cực, gắn lý thuyết với thực hành, tăng cường hoạt động trải nghiệm và giáo dục kỹ năng sống. Đồng thời, ngành sẽ tập trung nâng cao năng lực ngoại ngữ và tin học, từng bước đưa Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường phổ thông, đồng thời chú trọng đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá theo hướng khách quan, phản ánh đúng năng lực thực chất của người học.
Ba là, hiện đại hóa cơ sở vật chất, đẩy mạnh chuyển đổi số và xã hội hóa giáo dục. Giải pháp này nhằm tạo ra một môi trường giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của thời đại mới. Ngành sẽ cùng với các địa phương rà soát, sắp xếp, quy hoạch mạng lưới trường lớp theo nguyên tắc tạo thuận lợi cho người dân, đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh, phù hợp với quy hoạch, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia, các trường trọng điểm, chất lượng cao ở mỗi địa phương. Đặc biệt, ngành sẽ quyết tâm hoàn thành việc xây dựng các trường THPT chuyên trở thành các trường chuyên tốp đầu khu vực Đồng bằng Sông Hồng và cả nước; đẩy mạnh chuyển đổi số, hướng tới xây dựng mô hình “trường học thông minh”; tham mưu các cơ chế đột phá để thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã hội hóa, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia phát triển giáo dục.
Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, là giải pháp mang tính chiến lược, quyết định đến năng lực cạnh tranh và tốc độ phát triển bền vững của tỉnh. Trọng tâm là đổi mới toàn diện giáo dục - đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, thực tiễn; đẩy mạnh phân luồng, định hướng nghề nghiệp sớm cho học sinh; tăng cường đào tạo kỹ năng nghề, kỹ năng số và tư duy đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp, khu công nghiệp và các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng, đại học; triển khai hiệu quả mô hình “Giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông”, tạo hành lang liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Mục tiêu là đảm bảo người học được đào tạo theo nhu cầu xã hội, có việc làm phù hợp ngay sau tốt nghiệp, góp phần cung ứng kịp thời nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế mũi nhọn và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Năm là, tạo đột phá về công tác quản lý nhà nước và xây dựng cơ chế chính sách tạo động lực phát triển. Đây là giải pháp "chìa khóa", tạo nền tảng cho các giải pháp khác. Ngành sẽ chủ động tham mưu để chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy quản lý hành chính sang tư duy quản trị nhà trường hiện đại, kiến tạo và phục vụ. Đồng thời, chủ động tham mưu xây dựng các chính sách đặc thù của tỉnh, trong đó tập trung vào chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài; chính sách hỗ trợ, khuyến khích đặc thù đối với học sinh và giáo viên trường THPT chuyên; và cơ chế thu hút học sinh giỏi sau tốt nghiệp THPT lựa chọn học tập tại các trường đại học trên địa bàn tỉnh nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao tại chỗ; chính sách ưu đãi về thuế, đất đai để thúc đẩy xã hội hóa giáo dục…
Giáo dục và đào tạo tỉnh Ninh Bình đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội và thách thức lớn; với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp của các cấp, các ngành và toàn xã hội, với truyền thống đoàn kết và khát vọng công hiến, cùng quyết tâm đổi mới, sáng tạo. Đảng bộ và toàn thể ngành Giáo dục tỉnh Ninh Bình xin hứa sẽ tiếp tục nỗ lực, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội đề ra, góp phần đào tạo nên những thế hệ công dân ưu tú, đưa quê hương Ninh Bình phát triển ngày càng giàu đẹp, văn minh.
NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
(Tham luận của đồng chí Trần Việt Hùng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Cúc Phương)
Đồng chí Trần Việt Hùng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Cúc Phương.
... Xã Cúc Phương sau sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Văn Phương và xã Cúc Phương, có tổng diện tích tự nhiên 132,68 km², dân số: 8.650 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số (chủ yếu là dân tộc Mường) chiếm 47%. Đảng bộ xã Cúc Phương có 560 đảng viên sinh hoạt đảng tại 30 tổ chức đảng trực thuộc.
Thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp, trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ xã Cúc Phương luôn đoàn kết, thống nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện toàn diện các nhiệm vụ chính trị, đổi mới, cơ cấu lại, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc, đạt những kết quả quan trọng, tạo dấu ấn, nổi bật trong nhiệm kỳ qua, đó là:
1. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã luôn nhận thức sâu sắc, đúng đắn về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đối với sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của địa phương. Xác định công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, trong những năm qua, thông qua việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các phong trào thi đua, các mô hình như: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa;bảo tồn những giá trị, sắc thái văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng nông thôn mới; đền ơn đáp nghĩa và an sinh xã hội; tương thân, tương ái; hòa nhập nếp sống văn hóa mới ở cộng đồng dân cư; mô hình đội văn nghệ truyền thống tại các thôn xóm... đã thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia, tạo nên môi trường bổ ích, ý nghĩa để gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc trên địa bàn xã, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
2. Trên cơ sở thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp, như: Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa giàu bản sắc Cúc Phương có trọng tâm, trọng điểm; có lộ trình cụ thể và phân vùng đầu tư, khai thác dựa trên tài nguyên, thế mạnh của địa phương để gắn với phát triển du lịch. Trong đó, ưu tiên bố trí nguồn lực phát triển kinh tế, xã hội để bảo đảm tính kết nối liên thông theo hướng khai thác, phát huy tối đa giá trị bản sắc văn hóa của các dân tộc vào phát triển du lịch nhằm chuyển đổi cơ cấu lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Từ đó, góp phần bảo tồn, giữ gìn hiệu quả bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Cúc Phương, đồng thời phát huy những giá trị cốt lõi, bản chất, làm nên sức mạnh nội sinh để dân tộc thiểu số nơi đây tồn tại và phát triển.
Một trong những kết quả nổi bật trong bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số là đã phục dựng thành công nhiều lễ hội văn hóa như lễ hội “Cơm mới”, “Khai hạ” của người Mường, tích cực tham gia Ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc... Bên cạnh đó, có nhiều di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số được kiểm kê, khảo cứu. Công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số còn được thể hiện ở hoạt động tăng cường xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa đồng bộ, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào.
Đến nay, 100% các thôn trên địa bàn xã đều có nhà văn hóa và sân chơi thể thao, tạo tiền đề về không gian, địa điểm để các lễ hội văn hóa, các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ, những tín ngưỡng, diễn xướng dân gian của đồng bào các dân tộc được tổ chức, hoạt động trình diễn, truyền dạy. Các môn thể thao dân tộc như đẩy gậy, bắn nỏ, kéo co, đi cà kheo, đánh mảng... đã được đưa vào thi đấu chính thức tại các giải thể thao thường niên của địa phương, các hội thi, hội trại do Đoàn Thanh niên và các nhà trường tổ chức. Các loại nhạc cụ, khí cụ, công cụ lao động sản xuất truyền thống của các dân tộc cũng được tuyên truyền, khuyến khích bảo tồn, lưu giữ. Hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật, truyền bá văn hóa, văn nghệ dân gian bản địa được đẩy mạnh.
Cùng với đó, Cúc Phương cũng đẩy mạnh việc khai thác hiệu quả giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số để tạo thành các sản phẩm du lịch, xây dựng những thôn, bản trở thành “bảo tàng sống” nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đặc sắc, gắn với phát triển du lịch.
Một loạt các sản phẩm du lịch được xây dựng từ nền tảng văn hóa của dân tộc thiểu số như các làng nghề truyền thống, du lịch cộng đồng, du lịch khám phá, trải nhiệm thiên nhiên rừng ở Vườn Quốc gia Cúc Phương, tạo nên sức hút mới cho du khách trong và ngoài nước đến với Cúc Phương. Điều đó mang lại giá trị “kép”, vừa góp phần nâng cao đời sống nhân dân, giảm nghèo bền vững, vừa nâng cao nhận thức của đồng bào về trách nhiệm gìn giữ, truyền dạy cho con cháu văn hóa truyền thống, từ trang phục, ẩm thực, tín ngưỡng, diễn xướng, tri thức dân gian… giúp công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đạt kết quả đáng ghi nhận, góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
3. Với những kết quả hết sức tích cực mang lại từ việc quan tâm đến công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Cúc Phương thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra: Kinh tế tiếp tục phát triển; xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn vững mạnh; hoàn thành và hoàn thành vượt mức 12/12 chỉ tiêu Đại hội đề ra.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, chúng tôi nhận thấy quá trình phát triển kinh tế - xã hội đang làm nảy sinh những tác động ảnh hưởng đối với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số như: khi nền kinh tế chủ yếu tập trung vào quá trình buôn bán, phục vụ du lịch thì các lễ thức trong canh tác nông nghiệp cũng bị mai một theo. Một số nghi lễ vẫn được tiến hành, nhưng đã khác xa so với nguyên bản. Nền kinh tế thị trường cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mai một các nghề thủ công truyền thống. Nghề đan lát vẫn được duy trì, tuy nhiên do nguồn nguyên liệu từ rừng ngày một khan hiếm nên một số sản phẩm cầu kỳ, tốn nhiều nguyên liệu đang dần vắng bóng.
Những loại thuốc quý từ các loại cây rừng dùng để chữa bệnh không còn được lưu truyền, dần dần bị quên lãng trong đời sống cộng đồng. Cũng chính nền kinh tế hàng hóa, thị trường là nguyên nhân quan trọng làm mất đi những kiến thức, kinh nghiệm địa phương trong canh tác nông nghiệp. Khi hiện nay, hầu hết người nông dân đã áp dụng các loại giống lúa, ngô mới trong canh tác để đem lại những sản phẩm hàng hóa, mang lại lợi nhuận cao thì cũng là lúc các kiến thức, kinh nghiệm liên quan đến các loại cây trồng bản địa đang dần bị lãng quên. Như vậy, những năm vừa qua, sự tác động của những nhân tố mới trong kinh tế đang làm cho một số yếu tố bản sắc văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu số không còn giữ nguyên giá trị.
Những tồn tại trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
Trước hết, do sự quan tâm của các ngành, các cấp về bảo tồn và phát triển văn hóa chưa thật sự sâu sát, đồng bộ. Sự đầu tư của Nhà nước để xây dựng thiết chế văn hóa còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Công tác bảo tồn, trùng tu, quản lý và phát huy giá trị văn hóa truyền thống chưa được quan tâm đúng mức; cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ hoạt động văn hóa cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, còn thiếu; một số cơ chế chính sách trong lĩnh vực văn hóa còn nhiều bất cập; lực lượng cán bộ, công chức làm công tác văn hóa thiếu.
Bên cạnh đó, việc giao lưu văn hóa diễn ra rất nhanh và mạnh. Cùng với sự bùng nổ thông tin nhờ công nghệ hiện đại, sản phẩm văn hóa từ khắp nơi đã tác động vào. Trong lúc việc bảo tồn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu thì việc tiếp thu văn hóa mới lại thiếu chọn lọc (nhất là đối với một bộ phận lớp trẻ), chính vì vậy đã gây ảnh hưởng xấu tới văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu số.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ I về nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, chúng tôi xin được mạnh dạn đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn với phát triển kinh tế - xã hội như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa gắn với quảng bá du lịch. Từ đó khơi dậy lòng tự hào của mỗi dân tộc đối với di sản văn hóa tốt đẹp của cộng đồng mình như: tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, nếp sống văn hóa mới ở các bản, làng, gia đình, dòng họ; xây dựng hình ảnh đẹp, ấn tượng trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục lạc hậu, các tệ nạn cờ bạc, ma túy, bạo lực, gây rối trật tự công cộng; xây dựng các tổ, đội văn nghệ điểm dân cư tại các thôn, bản; thường xuyên tổ chức, giao lưu văn hóa các dân tộc nhân các ngày lễ, hội.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền; phát huy sự chủ động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp Nhân dân trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số.
Ba là, trên mọi bình diện, bất kỳ loại hình văn hóa nào khi được khai thác để phát triển đều phải chú tâm đến hiệu quả, đem lại quyền lợi thiết thực cho người dân tại chỗ. Nếu người dân tại địa phương không tôn trọng, không thấy được trách nhiệm của mình đối với các giá trị văn hóa thì công tác bảo tồn khó có hiệu quả. Nguồn lợi khai thác từ giá trị văn hóa nếu không đem lại lợi ích thiết thực cho người dân tại chỗ, như tạo được thuận lợi trong sinh kế chính đáng thì giá trị văn hóa đó cũng không thể phát triển bền vững. Sinh kế chính đáng là từ các hoạt động bảo tồn, khai thác các giá trị văn hóa, tạo thuận lợi để người dân tộc thiểu số có cơ hội tham gia như: Chế tác, bán hàng lưu niệm, các dịch vụ, sản phẩm của làng nghề…
Vì vậy, cần có chính sách, kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa thật bài bản, chuyên nghiệp, có chiến lược, lộ trình để tạo nên hiệu quả to lớn, lâu dài cho sự phát triển; cần tăng tính chuyên nghiệp đối với việc truyền thông, quảng bá hình ảnh văn hóa ở trong nước và quốc tế. Tập trung đầu tư khôi phục, tái hiện những lễ hội truyền thống vừa bảo đảm sắc thái dân gian, cốt cách dân tộc, vừa chứa đựng những yếu tố hiện đại. Chú trọng lồng ghép, cải biến những giá trị văn hóa truyền thống trong các sinh hoạt cộng đồng; phát huy vai trò của những hạt nhân văn hóa, văn nghệ trong giữ gìn, phổ biến, nhân rộng các giá trị văn hóa tốt đẹp. Kết hợp giữ “xây” và “chống” trong quá trình đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện văn hóa ngoại lai hoặc phục hồi một cách máy móc văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc.
Những bất cập trong quản lý, khai thác, bảo tồn, trùng tu, phân phối lợi ích từ khai thác di tích giữa nhà quản lý, cộng đồng là những vấn đề đang được đặt ra cấp bách, đòi hỏi các cấp quản lý cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hữu hiệu, sát hợp với thực tế.
Bốn là, tập trung quy hoạch bảo tồn, phát huy di sản văn hóa gắn với xây dựng hệ thống du lịch một cách đồng bộ và khoa học, để các hoạt động này nhanh chóng trở thành những sản phẩm du lịch đặc thù, khác biệt, hấp dẫn, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, làng, bản, làm cho đời sống văn hóa của tỉnh ngày càng phong phú.
Năm là, huy động mọi nguồn lực xã hội hóa, cộng đồng dân cư, nguồn hỗ trợ để đầu tư bảo tồn bản sắc văn hóa, gắn với sản phẩm đặc trưng du lịch, kêu gọi các cá nhân, tổ chức doanh nghiệp đầu tư hoạt động kinh doanh các điểm thể thao, vui chơi giải trí trên địa bàn.
Như vậy, trong quá trình đổi mới và hội nhập, nhiều giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số đã trở thành nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho Nhân dân. Đặc biệt, việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao mức sống; thu nhập cho cộng đồng và thúc đẩy các ngành nghề, dịch vụ khác ở địa phương phát triển; đồng thời là quyết tâm chính trị của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân xã Cúc Phương, nhằm thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
Nhóm PV