Lễ kết nghĩa anh em là nghi lễ quan trọng trong đời sống văn hóa của người Ê đê ở xã Cư Jút.
Hồi sinh nhiều lễ hội
Màn đêm buông xuống ở buôn Buôr, xã Cư Jút cũng là lúc ngọn lửa bập bùng cháy giữa sân, ánh lửa chập chờn in bóng người nhảy, múa xoang trong những bộ trang phục rực rỡ sắc màu. Tiếng chiêng của đồng bào Ê đê ngân lên, vang vọng giữa núi rừng như đánh thức cả một miền ký ức lâu đời. Những già làng khăn áo chỉnh tề, bước đi chậm rãi mà trang nghiêm, dẫn đầu đoàn tiến vào không gian lễ, chính thức khai mở lễ kết nghĩa anh em của người Ê đê. Nghi lễ cổ truyền từng mai một nay được phục dựng sống động, nguyên bản, đậm chất cộng đồng và thiêng liêng.
Từng được công nhận là buôn Ê đê cổ nhất Tây Nguyên từ năm 2007, buôn Buôr ngày nay không chỉ là một địa danh mà còn là một kho tàng văn hóa sống của đồng bào người Ê đê. Già làng Y Jút Byă, người gắn bó gần trọn đời mình với buôn xúc động tâm sự các lễ hội là phần hồn của người dân Ê đê. Nhiều năm nay, các nghi lễ như: cúng nhà mới, rước K’pan, lễ kết nghĩa anh em của người Ê đê hầu như rơi vào quên lãng. Nay được khôi phục, bà con vui lắm.
Tương tự, ở xã biên giới Quảng Trực, sau nhiều năm vắng bóng, lễ mừng mùa của người M’nông tại đây cũng được tổ chức trở lại. Trong tiếng chiêng vang và điệu múa xoay tròn quanh đống lửa, đôi mắt già làng Điểu Then ánh lên niềm xúc động: “Ngày nay, nhờ có Đảng và Nhà nước hỗ trợ, bà con được lo cái ăn cái mặc, giờ còn được lo cả cái phần hồn. Lễ mừng mùa không chỉ là dịp tạ ơn trời đất mà còn là dịp cả bon sum vầy, thương nhau như ruột thịt”.
Lễ hội không chỉ là chuyện của những người già. Giới trẻ cũng bắt đầu tìm thấy mình trong tiếng chiêng, tiếng khèn và những nghi lễ xưa cũ. Cô gái M’nông trẻ Thị Pim lần đầu tham dự lễ mừng mùa ở bon Bu Prăng đã không giấu được sự xúc động: “Nghe tiếng chiêng, em thấy mình thật sự thuộc về nơi này. Em muốn con cháu sau này cũng được biết và hiểu như em hôm nay”.
Có lễ, có chiêng, có xoang, các bon, buôn làng như hồi sinh sau giấc ngủ dài. Sự hồi sinh ấy không đến một cách tự nhiên. Trong những năm qua, từ các chương trình văn hóa - du lịch của tỉnh và sự hỗ trợ của Trung ương, các buôn, bon như Buôr, Bu Prăng... bắt đầu được đầu tư, quan tâm phục dựng lễ hội truyền thống, không chỉ để lưu giữ mà còn để lan tỏa bản sắc.
Trong dòng chảy hiện đại hóa, những giá trị đó dần bị lãng quên, thậm chí có nguy cơ biến mất nếu không được gìn giữ.
Gìn giữ cho mai sau
Tuy nhiên, trong dòng chảy hiện đại hóa, những giá trị đó đang dần phai nhạt, thậm chí đứng trước nguy cơ mai một nếu không được gìn giữ kịp thời. Nhiều lễ hội quan trọng như: lễ cúng lúa mới, lễ kết nghĩa, lễ Tăm Blang M’prang Bon, lễ cúng thần rừng của đồng bào người M’nông, Mạ, Ê đê… chỉ còn lại trong các chương trình giao lưu hay biểu diễn mang tính lễ tân.
Chỉ tính riêng các dân tộc Ê đê, M’nông, Mạ ở khu vực phía Tây tỉnh Lâm Đồng, đến nay đã phục dựng được hơn 20 lễ hội truyền thống.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng
Trước thực trạng đó, các địa phương đã chủ động hành động. Việc phục dựng lễ hội, truyền dạy nghệ thuật dân gian, xây dựng hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể đã được triển khai rộng khắp. Ở xã Cư Jút, các buôn văn hóa Ê đê như: buôn Nui, Buôr, Trum,... không chỉ tái hiện lễ hội mà còn tham gia tổ hợp tác dệt thổ cẩm, chế tác nhạc cụ, đánh chiêng, đan lát. Những lớp truyền dạy chiêng, hát dân ca, dệt vải được tổ chức thường xuyên cho thanh thiếu niên. Nhà dài, biểu tượng cộng đồng người Ê đê giờ đây được gìn giữ như những “bảo tàng sống”, nơi trẻ em học cách kể chuyện bằng chiêng, bằng lời ru, bằng ánh mắt của bà. “Nhà dài là trái tim của buôn. Mỗi lần có lễ hội, cả buôn lại tụ về đây”, già Y Jút xúc động chia sẻ.
Không chỉ dừng lại ở phục dựng, nhiều lễ hội hiện được đưa vào các chương trình du lịch cộng đồng, gắn với tuyến sinh thái trong vùng Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông. Du khách không chỉ trải nghiệm các nghi lễ độc đáo trong văn hóa của người dân bản địa mà còn được thưởng thức ẩm thực truyền thống, học dệt vải, tham gia trò chơi dân gian… Từ đó, lễ hội trở thành cầu nối giữa bảo tồn văn hóa và phát triển sinh kế. Quan trọng hơn cả, các lễ hội không còn là “màn biểu diễn” cho du khách xem mà trở lại với chính chủ nhân của nó là cộng đồng dân cư.
Hoàng Dương