Theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 120/NQ-CP, vùng ĐBSCL phải phát triển trên nguyên tắc “thuận thiên”, tức thuận theo các quy luật tự nhiên. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Nghị quyết 120 ưu tiên ba trụ cột theo thứ tự mới là: thủy sản - cây trồng khác - lúa gạo (thay vì coi lúa gạo là số 1 như trước đây). Quan điểm “nước mặn cũng là tài nguyên” đã định hướng cho ĐBSCL chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tận dụng các vùng nước lợ, nước mặn để phát triển nuôi trồng và khai thác thủy sản, thay vì chỉ tập trung ngọt hóa phục vụ trồng lúa.
Dưới đây, chúng tôi trình bày các số liệu cụ thể về thu nhập kinh tế từ các ngành sử dụng nước mặn, so sánh với các ngành sử dụng nước ngọt, và phân tích tỷ trọng đóng góp của chúng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng ĐBSCL hiện nay.
Thực trạng và số liệu
Các ngành sử dụng nước mặn. Trong những năm gần đây, ĐBSCL đã khai thác hiệu quả nguồn nước mặn, phát triển mạnh các ngành kinh tế như nuôi tôm nước lợ (tôm sú, tôm thẻ chân trắng), nuôi cua biển, sản xuất muối và khai thác thủy sản biển. Các số liệu cho thấy đóng góp kinh tế của những ngành này rất đáng kể.
Tàu cá tại Kiên Giang. Ảnh: N.K
Chẳng hạn với mảng nuôi tôm nước lợ (tôm sú, tôm thẻ chân trắng): ĐBSCL hiện là thủ phủ nuôi tôm của Việt Nam. Năm 2022, diện tích nuôi tôm nước lợ toàn vùng đạt trên 700.000 héc ta, sản lượng khoảng 700.000 tấn, chiếm tới 95% sản lượng tôm nước lợ của cả nước. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu tôm năm 2022 của Việt Nam lập kỷ lục 4,3 tỉ đô la, tăng 11,2% so với 2021 - phần lớn nguồn tôm xuất khẩu này đến từ các tỉnh ĐBSCL.
Tỉnh Cà Mau có gần 280.000 héc ta nuôi tôm và ngành tôm đóng góp tới 88,78% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh (1,07 tỉ đô la năm 2022). Tỉnh Bạc Liêu năm 2024 cũng dẫn đầu cả nước về sản lượng tôm với 284.260 tấn, đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh đạt 1,2 tỉ đô la, trong đó riêng tôm chiếm 1,13 tỉ đô la. Những con số này cho thấy nuôi tôm nước mặn đã trở thành mũi nhọn kinh tế của ĐBSCL, mang lại nguồn thu rất cao.
Thực tế sản xuất cũng minh chứng lợi ích kinh tế vượt trội: nông dân áp dụng mô hình luân canh tôm - lúa (nuôi tôm trong mùa khô, trồng lúa mùa mưa) có thu nhập tăng gấp hàng chục lần so với độc canh cây lúa trước đây, nhờ con tôm cho giá trị cao hơn hẳn trên cùng diện tích canh tác. Hay song song với tôm, nhiều vùng ven biển ĐBSCL (nhất là Cà Mau, Bạc Liêu) phát triển nghề nuôi cua biển trong hệ thống quảng canh và tôm - cua kết hợp. Cua biển cũng đem lại thu nhập đáng kể cho nông dân ven biển. Riêng tỉnh Cà Mau, sản lượng cua năm 2021 đạt khoảng 25.000 tấn, các năm trước đều duy trì trên 20.000 tấn/năm. Với giá cua biển thường cao (cua Cà Mau là đặc sản), nguồn cua này góp phần không nhỏ vào kinh tế địa phương và đa dạng hóa sinh kế vùng nước mặn.
Tương tự ở nghề làm muối truyền thống - sản phẩm kinh tế từ nước mặn - vẫn được duy trì tại một số tỉnh ven biển ĐBSCL như Bến Tre, Bạc Liêu, Trà Vinh dù quy mô và đóng góp không lớn bằng thủy sản. Ví dụ, tỉnh Bến Tre hiện có khoảng 1.125 héc ta ruộng muối (năm 2024) với sản lượng ước khoảng 29.600 tấn muối mỗi năm. Bạc Liêu cũng có vùng muối ở huyện Đông Hải, tuy diện tích muối đã thu hẹp do chuyển sang nuôi tôm, nhưng sản lượng muối toàn vùng ĐBSCL vẫn đạt hàng chục ngàn tấn/năm, phục vụ tiêu dùng trong nước. Ngành muối tạo sinh kế cho hàng ngàn lao động diêm dân, tận dụng mùa khô nắng gắt của vùng ven biển.
Với đường bờ biển dài và ngư trường rộng, các tỉnh ĐBSCL duy trì đội tàu cá hùng hậu, đóng góp lớn vào sản lượng khai thác thủy sản nước mặn trong cả nước. Tiêu biểu, tỉnh Kiên Giang có trên 10.000 tàu cá, mỗi năm đánh bắt hàng trăm ngàn tấn hải sản các loại. Năm 2024, tổng sản lượng thủy sản của Kiên Giang đạt trên 800.000 tấn (bao gồm 420.000 tấn khai thác và 380.000 tấn nuôi trồng), với sản lượng khai thác biển trên 420.000 tấn. Giá trị sản xuất ngành thủy sản của riêng Kiên Giang năm 2024 vượt 33.000 tỉ đồng (khoảng 1,4 tỉ đô la), cho thấy sự đóng góp kinh tế rất cao. Ngoài Kiên Giang, các tỉnh Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh… cũng có hoạt động đánh bắt ven biển và gần bờ sôi động, góp phần tạo nguồn nguyên liệu thủy sản xuất khẩu và thu nhập cho ngư dân.
Nhìn chung, các ngành dựa vào nước mặn ở ĐBSCL (tôm, cua, muối, hải sản) đều đem lại thu nhập đáng kể, thậm chí vượt trội so với nhiều ngành truyền thống dùng nước ngọt. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của vùng ĐBSCL hiện chiếm khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước, trong đó chủ lực là tôm nước lợ và cá tra (cá tra nuôi nước ngọt, sẽ đề cập bên dưới) - hai sản phẩm giá trị cao mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho vùng.
Quan điểm “nước mặn là tài nguyên” đã thực sự được hiện thực hóa qua việc coi con tôm, con cua, cá biển là thế mạnh để làm giàu, thay vì chỉ tập trung vào cây lúa như trước.
Các ngành sử dụng nước ngọt. Song song với sự trỗi dậy của kinh tế nước mặn, ĐBSCL vẫn phát triển các ngành truyền thống sử dụng nước ngọt như trồng lúa, cây ăn trái, nuôi cá nước ngọt (tiêu biểu là cá tra, cá ba sa) và trồng rau màu.
Lúa gạo từng là ngành chủ lực lâu đời của ĐBSCL, hiện vùng này vẫn là vựa lúa lớn nhất cả nước, đóng góp khoảng 56% sản lượng lúa gạo quốc gia. Sản lượng lúa ĐBSCL năm 2022 ước đạt khoảng 24,5 triệu tấn thóc (đóng góp phần lớn vào tổng sản lượng cả nước khoảng 43,4 triệu tấn). ĐBSCL cũng chiếm tới 95% sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2022, Việt Nam xuất khẩu xấp xỉ 7,1 triệu tấn gạo, kim ngạch 3,54 tỉ đô la - phần lớn nguồn gạo này đến từ ĐBSCL.
Tuy nhiên, do giá trị hạt gạo thấp hơn đáng kể so với tôm cá, nên thu nhập kinh tế từ lúa tuy lớn về sản lượng nhưng không cao bằng thủy sản. Ví dụ, so sánh nhanh: 3,54 tỉ đô la xuất khẩu gạo năm 2022 thấp hơn kim ngạch xuất khẩu tôm cùng năm (4,3 tỉ đô la). Dù vậy, lúa gạo vẫn giữ vai trò quan trọng đảm bảo an ninh lương thực và góp ngoại tệ đáng kể. Nhiều địa phương đã linh hoạt chuyển một phần diện tích lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản hoặc cây ăn trái để tăng thu nhập, đúng tinh thần Nghị quyết 120.
Về cây ăn trái, ĐBSCL vẫn là vùng cây ăn quả nhiệt đới lớn nhất Việt Nam với khoảng 370.000 héc ta cây ăn trái, chiếm gần 36-40% diện tích cây ăn trái cả nước. Sản lượng trái cây toàn vùng đóng góp gần 70% sản lượng trái cây nước ta, trong đó nhiều đặc sản nổi tiếng như xoài cát Hòa Lộc, sầu riêng Ri6, cam xoàn, bưởi Năm Roi, thanh long Châu Thành...
Những năm 2021-2024, trái cây ĐBSCL liên tục tăng giá trị nhờ mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam lần đầu tiên cán mốc 7 tỉ đô la - trong đó khoảng 60% sản lượng trái cây xuất khẩu đến từ ĐBSCL. Các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp... thu lợi lớn từ trái cây (như sầu riêng, xoài, chôm chôm) khi được giá xuất khẩu cao.
So sánh với nhóm nước mặn: giá trị xuất khẩu trái cây (ước khoảng 7 tỉ đô la năm 2024) thậm chí cao hơn cả tôm hoặc gạo, cho thấy cây ăn trái đang nổi lên mạnh mẽ. Tuy nhiên, cần lưu ý trái cây phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc và mùa vụ, không ổn định bằng tôm về mặt nuôi trồng quanh năm.
Lên liếp trồng hoa màu tại ĐBSCL.Ảnh: N.K
Về nuôi cá tra, cá ba sa, đây là ngành nuôi trồng nước ngọt chủ lực của ĐBSCL, tập trung ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Vĩnh Long. Diện tích nuôi cá tra toàn vùng khoảng 5.500-6.000 héc ta, sản lượng năm 2022 đạt 1,6 triệu tấn. Cá tra ĐBSCL nổi tiếng toàn cầu, giúp Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cá tra lớn nhất thế giới. Năm 2022, xuất khẩu cá tra đạt kỷ lục 2,4 tỉ đô la (tăng 51% so với 2021) - mức cao nhất từ trước đến nay. Cá tra cùng với tôm là hai mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực, mang lại giá trị cao cho vùng.
Thực tế, cá tra (nước ngọt) và tôm (nước mặn) có thể xem là “song kiếm” trong lĩnh vực thủy sản ĐBSCL: năm 2022, tổng kim ngạch hai ngành này đạt xấp xỉ 6,7 tỉ đô la, vượt xa các nông sản khác. Nhờ cá tra, nhiều doanh nghiệp và hộ nuôi ở An Giang, Đồng Tháp thu lợi nhuận lớn. So với trồng lúa, nuôi cá tra cho giá trị gấp nhiều lần trên cùng diện tích (mặc dù chi phí đầu tư cũng cao). Tuy nhiên, ngành cá tra chịu biến động thị trường mạnh, giá cả bấp bênh, nên chiến lược chung của vùng vẫn là đa dạng hóa đối tượng nuôi (bao gồm tôm càng xanh, cá rô phi, cá lóc... ở vùng nước ngọt).
Bên cạnh lúa và cây ăn trái, nông dân ĐBSCL cũng trồng rau màu (rau xanh, đậu, khoai, bắp...) nhất là vào mùa khô trên đất giồng cát hoặc luân canh trên đất lúa. Diện tích rau màu toàn vùng không lớn so với lúa (chỉ vài trăm ngàn héc ta), tập trung ở Long An, Tiền Giang, Trà Vinh... Giá trị rau màu chủ yếu phục vụ thị trường nội địa, một số ít xuất khẩu (như khoai lang tím ở Vĩnh Long từng xuất khẩu sang Nhật Bản).
Nhìn chung, đóng góp kinh tế của rau màu còn nhỏ trong cơ cấu nông nghiệp vùng so với lúa, thủy sản và trái cây. Tuy vậy, rau màu giúp đa dạng hóa sản xuất, tận dụng đất và lao động, nhất là trong mô hình luân canh (ví dụ trồng rau màu trên nền đất lúa mùa khô tại Trà Vinh tăng thêm thu nhập).
Tổng hợp lại, các ngành sử dụng nước ngọt (lúa gạo, trái cây, cá nước ngọt, rau màu) vẫn giữ vai trò quan trọng và tạo nền tảng kinh tế nông nghiệp ĐBSCL. Lúa gạo đảm bảo an ninh lương thực và nguồn thu ổn định; trái cây và cá tra mang lại ngoại tệ lớn, nâng cao vị thế nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, xu thế hiện nay cho thấy nhóm ngành nước mặn (nhất là thủy sản nước mặn/lợ) đang vươn lên mạnh mẽ, đóng góp ngày càng cao và có giá trị bình quân trên đơn vị diện tích cao hơn so với đa số cây trồng nước ngọt.
(Mời quý độc giả xem tiếp bài phân tích sâu hơn về sự chuyển dịch cơ cấu và tỷ trọng các ngành này trong kinh tế nông nghiệp vùng ĐBSCL trên KTSG số 22-2025, phát hành ngày 29-5-2025).
TS. Dương Văn Ni