Kết quả biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số ngày 14-6. Ảnh: Quochoi.vn
Luật Công nghiệp công nghệ số gồm 6 chương, 51 điều, quy định về phát triển công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tài sản số, quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Luật Công nghiệp công nghệ số thể chế hóa các chủ trương lớn được nêu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị như: thúc đẩy, ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ số phát triển; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài công nghệ số; phát triển hạ tầng công nghệ số thiết yếu, dùng chung; hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; xây dựng cơ chế đặt hàng và xây dựng khung pháp lý về thử nghiệm có kiểm soát...
Bên cạnh đó, Luật quy định địa phương có chính sách hỗ trợ phát triển nhân lực công nghiệp công nghệ số làm việc tại các dự án nghiên cứu, sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, chip bán dẫn, hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) được hỗ trợ một phần chi phí thuê nhân lực chất lượng cao; chi phí đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Luật cũng quy định một số chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số, trong đó huy động nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, thiết kế, chuyển giao công nghệ; từng bước làm chủ công nghệ số; xây dựng hạ tầng công nghiệp công nghệ số dùng chung quy mô vùng, quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động công nghiệp công nghệ số.
Theo Bộ Khoa học và công nghệ, Luật Công nghiệp công nghệ số được kỳ vọng là đòn bẩy thể chế cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Đây là thời điểm vàng để Việt Nam xây dựng được nền tảng pháp lý chủ động, mở đường cho doanh nghiệp công nghệ trong nước phát triển vững chắc, hội nhập sâu rộng và góp phần tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong kỷ nguyên số. Luật Công nghiệp công nghệ số có hiệu lực từ ngày 1-1-2026.
Hà Lê