Các đại biểu bấm nút biểu quyết thông qua Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp quy định, nguyên tắc quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật khác có liên quan; phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Cơ quan đại diện chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp, hoạt động quản lý, điều hành của người đại diện chủ sở hữu trực tiếp và các chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty.
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải thông qua người đại diện chủ sở hữu trực tiếp hoặc người đại diện phần vốn nhà nước; bảo đảm doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Cơ quan đại diện chủ sở hữu, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, giám sát vốn nhà nước tại doanh nghiệp, bảo đảm hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của Luật này; phòng, chống dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm giải trình.
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2025. Việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp có vốn nhà nước của năm tài chính 2025 được thực hiện theo quy định của Luật này. Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Trước đó, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, ông Phan Văn Mãi - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, về đối tượng áp dụng, có ý kiến đề nghị bổ sung doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp, bao gồm: tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở lên (không bao gồm bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng chính sách); doanh nghiệp có vốn đầu tư của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, vốn điều lệ của các doanh nghiệp thuộc cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được Nhà nước giao nhiệm vụ khi thành lập không chỉ bao gồm vốn nhà nước mà còn sử dụng nhiều nguồn vốn khác. Do đó, việc đưa nhóm doanh nghiệp này vào phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật sẽ không bảo đảm tính thống nhất với mục tiêu và đối tượng điều chỉnh của Luật.
Tuy nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, quản lý vốn của các tổ chức nêu trên, dự thảo Luật đã quy định tại Điều 56 và giao Chính phủ quy định chi tiết. Ngoài ra, để bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan rà soát, chỉnh lý, bổ sung nội dung “đầu tư, hỗ trợ” của nhà nước đối với Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam tại Điều 57 của dự thảo Luật.
Về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, có ý kiến đề nghị xem xét không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản mà chỉ cho phép doanh nghiệp lớn của nhà nước được đầu tư lĩnh vực này.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, doanh nghiệp có vốn nhà nước được thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật và định hướng của Nhà nước với vai trò của chủ sở hữu thông qua điều lệ, chiến lược phát triển của doanh nghiệp.
Do đó, việc quy định không cho phép toàn bộ doanh nghiệp nhà nước đầu tư bất động sản, mà chỉ cho phép một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn được thực hiện hoạt động đầu tư này sẽ làm hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không phù hợp với chủ trương của Đảng về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị không quy định nội dung này trong dự thảo Luật...
Trần Huyền