Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi)

Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi)
2 giờ trướcBài gốc
Trước đó, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi).
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Quy hoạch (sửa đổi)
Theo đó, dự thảo Luật Quy hoạch (sửa đổi) chỉ bổ sung điều chỉnh một số nội dung mang tính nguyên tắc chung đối với quy hoạch chi tiết ngành, bao gồm: Yêu cầu, nguyên tắc chung cho hoạt động quy hoạch; mối quan hệ với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; hồ sơ quy hoạch; việc công bố quy hoạch; lưu trữ và chia sẻ thông tin, cơ sở dữ liệu quy hoạch; đánh giá sự phù hợp của dự án đầu tư đối với quy hoạch.
Các luật chuyên ngành sẽ quy định chi tiết, cụ thể về lập, thẩm định, phê duyệt, công bố, điều chỉnh và nội dung quy hoạch chi tiết ngành, quy hoạch đô thị và nông thôn.
Về ý kiến cho rằng, khái niệm quy hoạch chi tiết ngành chưa phân biệt rõ ràng với quy hoạch ngành, dễ gây chồng chéo, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, dự thảo Luật đã quy định quy hoạch chi tiết ngành là quy hoạch cụ thể hóa quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh về phương án phát triển, sắp xếp, phân bố không gian phát triển cho các ngành kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên. Như vậy, quy hoạch chi tiết ngành có nội dung chi tiết hơn quy hoạch ngành.
Để phản ánh đúng tính chất của các quy hoạch chi tiết và mối quan hệ giữa các quy hoạch, dự thảo Luật đã sửa đổi danh mục quy hoạch chi tiết ngành theo hướng xác định ngay quy hoạch được cụ thể hóa.
Về hệ thống quy hoạch, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, Chính phủ đã rà soát, sửa đổi nội dung của quy hoạch vùng tại Điều 29, dự thảo Luật để làm rõ hơn vai trò của quy hoạch vùng.
Về sự cần thiết của quy hoạch vùng, nội dung quy hoạch vùng xác định phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường có tính liên ngành và liên tỉnh. Đặc biệt, nội dung quy hoạch vùng sẽ xác định phương hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng dùng chung trong vùng như giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế…
Vai trò của quy hoạch vùng đã được thể hiện tại khái niệm “quy hoạch vùng” tại dự thảo Luật là “cụ thể hóa định hướng phát triển vùng và liên kết vùng”; “đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và liên kết giữa các ngành, các địa phương trên phạm vi lãnh thổ vùng”.
Trong khi đó, quy hoạch tỉnh chỉ xác định phương án phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh, liên xã.
Mặt khác, việc lập quy hoạch vùng nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương: “Xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ quốc gia một cách hợp lý, phát huy tốt nhất các lợi thế đặc thù của mỗi vùng, địa phương và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới” đã được nêu tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và các Nghị quyết phát triển vùng của Đảng.
Việc bỏ các quy hoạch vùng sẽ thiếu các định hướng, giải pháp cụ thể về phát triển vùng, giải quyết các vấn đề xung đột, mâu thuẫn liên tỉnh, đặc biệt là liên quan đến phát triển hạ tầng liên kết vùng và quản lý các tài nguyên dùng chung như tài nguyên nước, tài nguyên rừng, đa dạng sinh học... Điều này có thể dẫn đến lãng phí, thiếu hiệu quả và thiếu bền vững trong quản lý, khai thác, sử dụng nguồn lực. Do đó, việc lập quy hoạch vùng là cần thiết.
Quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng được phê duyệt sau quy hoạch tổng thể quốc gia; quy hoạch tỉnh được phê duyệt sau quy hoạch vùng; quy hoạch chi tiết ngành được phê duyệt sau quy hoạch mà quy hoạch đó cụ thể hóa được phê duyệt.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, để bảo đảm phù hợp với vai trò của quy hoạch tỉnh trong việc kiến tạo không gian phát triển của địa phương, định hướng kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, phát triển đô thị và nông thôn, kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; phù hợp quy định về mối quan hệ giữa quy hoạch đô thị và nông thôn với quy hoạch tỉnh, tránh làm mất tính liên kết, đồng bộ trong phát triển giữa các ngành, các địa bàn trong tỉnh và phù hợp với quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn, việc phê duyệt quy hoạch đô thị và nông thôn thực hiện như sau:
Quy hoạch chung, quy hoạch phân khu trong trường hợp không yêu cầu lập quy hoạch chung theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn được phê duyệt sau khi quy hoạch tỉnh được phê duyệt; Thứ tự phê duyệt giữa các loại, cấp độ quy hoạch đô thị và nông thôn được thực hiện theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn.
Về ý kiến đề nghị thời kỳ quy hoạch ngành đối với các ngành như giao thông, thủy lợi, năng lượng nên là 20 năm; quy định thời hạn, tầm nhìn của quy hoạch đô thị và nông thôn thống nhất theo thời kỳ, tầm nhìn quy định tại Luật Quy hoạch, Chính phủ có ý kiến như sau: Dự thảo Luật đã quy định thống nhất thời kỳ quy hoạch là 10 năm vì các lý do sau:Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có thời kỳ 10 năm. Việc quy định thời kỳ quy hoạch là 10 năm sẽ bảo đảm được sự thống nhất giữa quy hoạch với chiến lược và bảo đảm sự đồng bộ giữa công cụ tổ chức thực hiện chiến lược. Theo quy định hiện hành, chỉ có quy hoạch đô thị và nông thôn có thời hạn từ 20 đến 25 năm, tầm nhìn đến 50 năm. Để bảo đảm thống nhất với pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn, Dự thảo Luật đã có quy định: Thời kỳ, tầm nhìn của quy hoạch đô thị và nông thôn thực hiện theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn.
Quỳnh Nga
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/quoc-hoi-thong-qua-luat-quy-hoach-sua-doi-434175.html