Thượng tướng Lê Tấn Tới - Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội trình bày báo cáo. Ảnh: Quochoi.vn
Hoàn thiện khung pháp lý cho tình trạng khẩn cấp
Theo báo cáo tóm tắt do Thượng tướng Lê Tấn Tới - Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội trình bày, Dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp được xây dựng trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh hiện hành và tiếp thu đầy đủ ý kiến của đại biểu Quốc hội trong các vòng thảo luận.
Luật quy định tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố hoặc công bố khi xuất hiện thảm họa hoặc nguy cơ thảm họa gây đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe người dân; tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; hoặc đe dọa đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Tình trạng khẩn cấp được phân thành ba nhóm chính: Tình trạng khẩn cấp về thảm họa (bao gồm thiên tai, dịch bệnh, y tế, môi trường và các sự cố khác); Tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
Việc quy định theo hướng phân nhóm giúp đảm bảo tính bao quát nhưng vẫn cụ thể, tạo căn cứ để áp dụng các biện pháp phù hợp với từng loại tình huống.
Một trong những nội dung được quan tâm là cơ chế thông tin trong tình trạng khẩn cấp. Thượng tướng Lê Tấn Tới cho biết số điện thoại 112 đang được sử dụng trên toàn quốc để tiếp nhận thông tin về sự cố, thiên tai, thảm họa và yêu cầu hỗ trợ của người dân.
Theo Luật, Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh là cơ quan thường trực Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự cùng cấp, chịu trách nhiệm vận hành hệ thống tiếp nhận và xử lý thông tin qua đầu số 112. Các phản ánh và yêu cầu trợ giúp từ tổ chức, cá nhân sẽ được cơ quan này tiếp nhận và chuyển đến các lực lượng chức năng để xử lý kịp thời.
Các đại biểu Quốc hội tham dự phiên họp. Ảnh: Quochoi.vn
Trên cơ sở góp ý của các đại biểu, dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng giao rõ trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương. Theo đó, các đơn vị có trách nhiệm: Công bố thông tin về tình trạng khẩn cấp kịp thời, chính xác và thông suốt đến người dân và doanh nghiệp; Chủ động tiếp nhận phản ánh, đề xuất từ người dân và tổ chức; Tổ chức triển khai các biện pháp cứu trợ, hỗ trợ khẩn cấp và khắc phục hậu quả; Bảo đảm thông tin liên lạc phục vụ ứng phó trên địa bàn.
Việc quy định chặt chẽ hơn về cơ chế thông tin giúp nâng cao khả năng phản ứng nhanh và sự phối hợp giữa các lực lượng trong tình huống khẩn cấp.
Nhiều biện pháp mạnh được áp dụng khi xảy ra thảm họa
Luật Tình trạng khẩn cấp quy định cụ thể các biện pháp có thể áp dụng tại những khu vực được đặt trong tình trạng khẩn cấp do thảm họa, bao gồm thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ - hạt nhân hoặc các sự cố nghiêm trọng khác.
Các biện pháp này bao gồm: Di dời hoặc cưỡng chế di dời người dân khỏi khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn; Yêu cầu doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất, kinh doanh để đáp ứng nhu cầu hàng hóa thiết yếu phục vụ ứng phó thảm họa; Kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, đầu cơ, gian lận thương mại, sản xuất hàng giả trong thời điểm khẩn cấp; Sử dụng vũ lực, vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định để ngăn chặn, bắt giữ người và phương tiện vi phạm.
Việc cho phép áp dụng các biện pháp mạnh mẽ thể hiện yêu cầu cấp thiết nhằm bảo vệ người dân và đảm bảo trật tự xã hội khi xảy ra tình huống vượt ngoài điều kiện bình thường.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp. Ảnh: Quochoi.vn
Bên cạnh hệ thống chỉ huy ứng phó, Luật cũng quy định về lực lượng tham gia phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả tình trạng khẩn cấp. Lực lượng được chia thành lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi.
Lực lượng nòng cốt bao gồm: Quân đội nhân dân; Công an nhân dân; Dân quân tự vệ; Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; Lực lượng của các bộ, ngành và địa phương.
Từ lực lượng nòng cốt này, Luật quy định việc thành lập các đơn vị đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp, gồm: Đội ứng phó khẩn cấp; Đội công tác tuyên truyền đặc biệt; Đội tuần tra đặc biệt.
Lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia, góp phần hỗ trợ và phối hợp với các lực lượng chuyên trách trong quá trình ứng phó và khắc phục.
Sự phân công rõ ràng về vai trò, trách nhiệm của từng lực lượng góp phần bảo đảm việc triển khai các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp được nhất quán, đồng bộ và hiệu quả hơn.
Luật được kỳ vọng sẽ giúp Nhà nước và các cấp chính quyền chủ động hơn trong xử lý các tình huống bất thường, bảo vệ an toàn cho người dân, đồng thời tăng cường hiệu quả điều hành và phối hợp giữa các cơ quan trong mọi tình huống khẩn cấp.
Hồng Thái