Quốc hội với trọng trách kiến tạo 'đường ray pháp lý' cho kỷ nguyên thịnh vượng - Bài 1: Hiện thực những khát vọng vĩ đại của dân tộc

Quốc hội với trọng trách kiến tạo 'đường ray pháp lý' cho kỷ nguyên thịnh vượng - Bài 1: Hiện thực những khát vọng vĩ đại của dân tộc
2 giờ trướcBài gốc
Lời dẫn: Đất nước đang đứng trước “cửa ngõ” của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hiện thực hóa khát vọng lớn lao của cả dân tộc: hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện được điều vĩ đại đó, cùng với xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy việc sống và tuân theo pháp luật là tối thượng, một nhiệm vụ hàng đầu là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, phải thiết kế một “đường ray pháp lý” để con tàu đất nước tiến nhanh, tiến vững chắc trong kỷ nguyên vươn mình. Quốc hội có vai trò trung tâm trong sứ mệnh lịch sử này.
Từ Tân Trào lịch sử đến Ba Đình lộng gió
Các đại biểu Hòa Bình dự Quốc dân Đại hội Tân Trào (Ảnh TL do gia đình cung cấp, ông Quách Hy thứ hai từ phải sang).
Trong căn nhà nhỏ ở Vụ Bản, Lạc Sơn, Hòa Bình (nay là Phú Thọ), người thân của ông Quách Hy – xuất thân là dòng dõi quan lang Mường Khói lần giở những trang tư liệu, những tấm hình đã ố vàng theo thời gian. Ông Quách Hy là một trong những đại biểu của xứ Mường dự Quốc dân đại hội do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh triệu tập, tháng 8/1945.
Trong hồi ký “Theo Cách mạng đi lên”, ông Quách Hy kể lại, khi được hỏi: “Sắp tới có một cuộc họp của đại biểu cả nước bàn về việc đánh Tây, đuổi Nhật, ngài có muốn đi không?”, ông đã lập tức trả lời: “Tôi sẵn sàng”. Lời đáp “Tôi sẵn sàng” của ông Quách Hy chắc chắn cũng là lời đáp của các đại biểu dự đại hội giữa rừng Tân Trào năm ấy. Đó là tiếng nói đồng lòng, là khát vọng, là quyết tâm “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” của mấy mươi triệu đồng bào.
Trong thời cơ “ngàn năm có một” của dân tộc, Đại hội đại biểu quốc dân (nay gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào) với hơn 60 đại biểu đại diện cho 3 miền Bắc-Trung-Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc… và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào đã thông qua những quyết định có ý nghĩa lịch sử, có tính chất quyết định vận mệnh của dân tộc, trong đó có việc tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa; thông qua 10 chính sách của Việt Minh; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch (một hình thức của Chính phủ Cách mạng lâm thời); quy định Quốc kỳ, Quốc ca…
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, nguyên Tổng Bí thư, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh và Đoàn đại biểu về nguồn chụp ảnh lưu niệm tại Đình Tân Trào, tháng 8/2025
(Ảnh: quochoi.vn)
Quốc dân Đại hội Tân Trào là “một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Một đại hội có tầm vóc lịch sử của một Quốc hội. Một đại hội thể hiện ý chí và khát vọng độc lập của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đại hội đã chuẩn bị những điều kiện về chính trị pháp lý vô cùng quan trọng cho sự ra đời của một nước Việt Nam mới – một nước Việt Nam độc lập, tự do được tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), ngày 2/9/1945.
Biểu tượng của ý chí và niềm tin toàn dân tộc
Để khẳng định quyền làm chủ của Nhân dân với đất nước, khẳng định tính “chính danh, chính nghĩa” của chính quyền dân chủ Nhân dân, chỉ một ngày sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giầu, nghèo, tôn giáo, dòng giống...”.
Báo Quốc hội số 1, ra ngày 17/12/1945, trong bài “Vận mệnh ngàn năm của nước Việt Nam ở trong tay các bạn” nêu: Lần thứ nhất trong lịch sử nước Việt Nam, sau khi đã đạp đổ một lúc ba vòng xiềng xích (đế quốc Pháp, Nhật và chế độ phong kiến) người dân Việt Nam được tự do chọn lấy người để đại diện mình điều khiển công việc quốc gia. “Vận mệnh ngàn năm của nước Việt Nam lá phiếu trong tay các bạn. Hãy cố mà tỏ cho thế giới biết ý nguyện cương quyết Độc lập đã hai ngàn năm nay còn bừng bừng trong tâm can ta, và tương lai nước Việt Nam sẽ do người Việt Nam định đoạn”.
Báo Quốc hội số đặc biệt ra ngày 6/1/1946, đăng chân dung và lời kêu gọi đồng bào đi bỏ phiếu bầu đại biểu vào Quốc hội đầu tiên.
(Ảnh chụp màn hình lưu trữ của TVQG)
Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam đã diễn ra trong điều kiện ngặt nghèo, thù trong giặc ngoài, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội hết sức khó khăn. Mặc dù vậy, trong không khí vô cùng phấn khởi, với tinh thần dân tộc dâng cao chưa từng có sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Nhân dân cả nước đã đón nhận và chuẩn bị Tổng tuyển cử như một ngày hội lớn.
Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, bằng ý chí sắt đá của một dân tộc quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được, toàn thể nhân dân Việt Nam từ miền xuôi đến miền ngược, từ miền Bắc đến miền Nam, từ nông thôn đến thành thị đã nô nức đi bỏ phiếu trong ngày lịch sử vĩ đại - ngày 6/1/1946.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta được trực tiếp thực hiện quyền làm chủ đất nước thông qua lá phiếu cử tri. Quốc hội đầu tiên (Quốc hội khóa I) của nước Việt Nam ra đời, đánh dấu mốc phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ ở Việt Nam. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vừa là thành quả, vừa là yêu cầu bức thiết của cách mạng. Đó là Quốc hội của độc lập dân tộc, của thống nhất đất nước, của ý chí đại đoàn kết toàn dân tộc.
Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII.
(Ảnh TL/TTXVN)
Từ Quốc hội khóa đầu tiên trong thời kỳ chính quyền cách mạng non trẻ tới Quốc hội “chiến khu” trong những năm kháng chiến, kiến quốc; từ Quốc hội trên đất nước còn chia cắt hai miền đến Quốc hội của nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất; từ Quốc hội của thời kỳ bao cấp đến Quốc hội đổi mới, hội nhập, mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đều để lại dấu ấn sâu đậm, gắn liền với từng dấu mốc của lịch sử đất nước.
“80 năm qua, mỗi bản Hiến pháp, mỗi kỳ họp của Quốc hội là một trang sử, là minh chứng rực rỡ cho tinh thần dân chủ, khát vọng hòa bình, thống nhất và tiến lên xã hội chủ nghĩa, đưa Quốc hội trở thành biểu tượng cao đẹp của ý chí và niềm tin của toàn dân tộc”, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng khẳng định tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Quốc hội Việt Nam - 80 năm hình thành và phát triển”, ngày 9/9/2025.
Khát vọng của dân tộc, khát vọng của Quốc hội
Đất nước đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc.
(Ảnh một góc TP Hồ Chí Minh/Nguồn ảnh: TTBC)
Gần 80 năm hình thành và phát triển, Quốc hội với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, Quốc hội không chỉ song hành nhưng gắn liền và góp phần quan trọng vào việc hiện thực những khát vọng lớn lao của dân tộc.
Từ Quốc dân đại hội Tân Trào, đến Quốc hội khóa I và Hiến pháp năm 1946, Quốc hội đã cùng dân tộc hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước tự do, dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 mà Quốc hội thông qua là sự cụ thể mong muốn về một nước Việt Nam thống nhất, hòa bình, đi lên chủ nghĩa xã hội, hiện thực dần ước muốn “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hiến pháp năm 1992 cùng với nhiều Bộ luật, luật được Quốc hội thông qua đã mở đường cho thời kỳ đổi mới, hội nhập, tạo lập nền tảng pháp lý đưa đất nước ra khỏi bao cấp, nghèo đói, lạc hậu, định hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 2013 cùng với một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, tiếp tục kiên định con đường đổi mới, khẳng định các thành quả của cải cách thể chế và thành tựu phát triển đất nước, đưa đất nước phát triển, hội nhập sâu rộng, tiến cùng “nhịp đập” của thế giới.
Sau gần 40 năm đổi mới, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt những kết quả quan trọng, mang tầm vóc lịch sử. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 195 quốc gia trên thế giới.
Mới đây, chiều ngày 29/10 (giờ địa phương), trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland của Tổng bí thư Tô Lâm, hai nước Việt Nam – Anh đã chính thức nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện. Như vậy đến thời điểm này, nước ta đã có quan hệ ngoại giao ở mức cao nhất với tất cả các nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành một trong 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô kinh tế tăng gần 100 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD năm 1975 lên gần 5.000 USD năm 2024. Việt Nam lọt vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; nằm trong nhóm 20 nền kinh tế thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất thế giới từ năm 2019 đến nay, là một trong 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất thế giới.
Hơn lúc nào hết và không thể chậm trễ hơn thời điểm này. Đất nước đã đủ thế và lực; đã đủ ý chí và quyết tâm để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh của dân tộc – Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định và nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc trực tuyến tới điểm cầu các cơ quan Trung ương; các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và đến các điểm cầu cấp xã với sự tham dự của hơn 1,3 triệu đại biểu nhằm quán triệt triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12, tình hình kinh tế xã hội năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế xã hội năm 2025 và tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, tháng 12/2024.
Đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên thịnh vượng, hùng cường dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu – Đó không chỉ là lời khẳng định, lời hiệu triệu của người đứng đầu Đảng ta, mà đó cũng là khát vọng lớn lao, khát vọng vĩ đại của toàn dân tộc.
Lịch sử 80 năm hình thành và phát triển của Quốc hội Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự ủng hộ của Nhân dân đã khẳng định: Mỗi bước đi của dân tộc đều có dấu ấn của Quốc hội. Để đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thịnh vượng, Quốc hội có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó cũng là sứ mệnh của lịch sử, trọng trách mà Nhân dân tin tưởng trao phó cho Quốc hội.
(Còn tiếp)
An Bình - Giang Hoàng
Nguồn Pháp Luật VN : https://baophapluat.vn/quoc-hoi-voi-trong-trach-kien-tao-duong-ray-phap-ly-cho-ky-nguyen-thinh-vuong-bai-1-hien-thuc-nhung-khat-vong-vi-dai-cua-dan-toc.html