Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày Tờ trình - Quochoi.vn
Trình bày tờ trình của Chính phủ về chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh nhấn mạnh sự cần thiết và mục tiêu đầu tư dự án cao tốc Quy Nhơn - Pleiku.
Theo đó, dự án nhằm hình thành trục ngang Đông - Tây kết nối vùng Tây Nguyên với Duyên hải Nam Trung bộ, kết nối hệ thống trục dọc (đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cao tốc Bắc - Nam phía Tây, đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn Đông, Quốc lộ 1, đường bộ ven biển), phát huy hiệu quả các dự án đã và đang đầu tư, đáp ứng nhu cầu vận tải.
Dự án cũng tạo dư địa, động lực phát triển không gian vùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại, kết nối các trung tâm kinh tế, cảng biển; nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo động lực liên kết, thúc đẩy hợp tác và phát triển vùng...
Dự án có điểm đầu tại Quốc lộ 19B thuộc địa phận Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định; điểm cuối tại đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Tổng chiều dài khoảng 125 km; trong đó đoạn qua địa phận tỉnh Bình Định khoảng 40 km, qua địa phận tỉnh Gia Lai khoảng 85 km.
Dự án đi qua địa phận Thị xã An Nhơn và huyện Tây Sơn thuộc tỉnh Bình Định; thị xã An Khê, huyện Đắk Pơ, huyện Mang Yang, huyện Đắk Đoa và Thành phố Pleiku thuộc tỉnh Gia Lai.
Sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án là 43.734 tỷ đồng. Nguồn vốn đề xuất sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước năm 2024, nguồn ngân sách trung ương và địa phương giai đoạn 2021 – 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.
Việc chuẩn bị đầu tư, thực hiện Dự án từ năm 2025, hoàn thành Dự án vào năm 2029. Dự án được áp dụng một số cơ chế, chính sách và giải pháp đặc thù áp dụng để triển khai.
Để sớm hoàn thành tuyến đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, Chính phủ trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án.
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết dự án đáp ứng các tiêu chí dự án quan trọng quốc gia thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại Điều 8 của Luật Đầu tư công. Do đó, việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về phân chia các dự án thành phần của Dự án, Chính phủ đề xuất phân chia dự án thành 2 dự án thành phần, theo địa giới hành chính của tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, dự kiến tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai sẽ sáp nhập thành tỉnh Gia Lai, khi đó dự án sẽ nằm trọn trong địa bàn một tỉnh.
Do đó, cơ quan thẩm tra đề nghị Chính phủ nghiên cứu phương án phân chia dự án thành phần phù hợp với chủ trương sáp nhật tỉnh, năng lực quản lý của địa phương, yêu cầu kỹ thuật của Dự án nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiệu quả của toàn bộ dự án.
Về nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị Chính phủ căn cứ quy định của Luật Đầu tư công hiện hành báo cáo bổ sung việc thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn của Dự án.
Về các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt triển khai đầu tư dự án, Chính phủ đề xuất 9 nhóm cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho dự án, theo đó cơ bản các chính sách đặc thù, đặc biệt này đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với một số dự án quan trọng quốc gia trong thời gian qua, do đó đề xuất của Chính phủ là có cơ sở.
Tuy nhiên, theo Ủy ban Kinh tế và Tài chính, một số chính sách đã được điều chỉnh so với các chính sách tương tự được áp dụng cho một số dự án thời gian qua. Do đó, Ủy ban đề nghị thuyết minh làm rõ hơn việc điều chỉnh một số chính sách này. Đồng thời, cần tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các cơ chế, chính sách áp dụng, bảo đảm các cơ chế chính sách này khả thi, phù hợp đối với tính chất, mục tiêu của dự án.
Ngọc Trang