Chính phủ vừa ban hành Nghị định 212/2025 quy định chi tiết hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Lĩnh vực đầu tư
Các quỹ bảo hiểm được đầu tư vào một số lĩnh vực tại thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Theo đó, danh mục đầu tư tại thị trường trong nước của các quỹ này bao gồm:
- Công cụ nợ của Chính phủ bao gồm trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, công trái xây dựng Tổ quốc;
- Trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh;
- Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước trên 50% vốn điều lệ; không thực hiện đầu tư tại các ngân hàng thương mại đang được kiểm soát đặc biệt;
- Trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước trên 50% vốn điều lệ; không thực hiện đầu tư tại các ngân hàng thương mại đang được kiểm soát đặc biệt;
Trong khi đó, danh mục đầu tư tại thị trường quốc tế là trái phiếu Chính phủ.
Việc đầu tư do Bảo hiểm xã hội thực hiện hoặc ủy thác. Ảnh minh họa: AI
Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện đầu tư hoặc ủy thác đầu tư. Trường hợp ủy thác đầu tư, Bảo hiểm xã hội Việt Namxây dựng phương án thực hiện để báo cáo Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội thông qua trong phương án đầu tư hàng năm.
Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tuân thủ nguyên tắc đầu tư của từng quỹ quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế và Luật Việc làm.
Việc ưu tiên đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, nhất là trái phiếu Chính phủ dài hạn, do Hội đồng quản lý quyết định tại phương án hàng năm và được xác định bằng tỷ trọng số dư trái phiếu Chính phủ so với số dư tổng danh mục đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Quy định về tiền lời và rủi ro khi đầu tư
Cũng theo Nghị định 212/2025, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư của các quỹ bảo hiểm được sử dụng để trích lập quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động đầu tư từ các quỹ này.
Theo nguyên tắc, mức trích quỹ dự phòng rủi ro hàng năm tối đa không quá 2% số tiền sinh lời của hoạt động đầu tư cho đến khi số dư quỹ dự phòng rủi ro bằng 5% số dư nợ đầu tư của năm trước liền kề. Mức trích cụ thể sẽ do Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định.
Quỹ dự phòng rủi ro trong thời gian chưa sử dụng được đầu tư vào công cụ nợ của Chính phủ.
Phần còn lại được phân bổ vào các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo tỷ lệ số tiền sinh lời đóng góp của từng quỹ trên tổng số tiền sinh lời.
Về rủi ro, việc xử lý đối với các khoản tiền gửi, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại bị chậm hoặc không thanh toán được lãi hoặc gốc sẽ được thực hiện theo các biện pháp: gia hạn nợ, khoanh nợ, xóa lãi, bán nợ hoặc xóa nợ gốc.
Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam có quyền xem xét, quyết định xử lý đối với trường hợp áp dụng biện pháp gia hạn nợ. Các trường hợp còn lại thẩm quyền sẽ do Hội đồng quản lý xem xét, quyết định.
Khi xảy ra rủi ro dẫn đến vốn đầu tư không thu hồi đúng hạn hoặc không có khả năng thu hồi, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải kịp thời báo cáo Hội đồng quản lý để xác minh, đánh giá mức độ thiệt hại, tổn thất về tài sản và lập hồ sơ đề nghị xử lý.
Kiến nghị Hội đồng quản lý xem xét, xử lý đối với các biện pháp xử lý rủi ro thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản lý như trên.
Về nguyên tắc xử lý rủi ro, trước hết, khoản đầu tư phải được thực hiện theo đúng thẩm quyền và phương thức đầu tư đã được quy định.
Phải có đủ hồ sơ, tài liệu chứng minh việc rủi ro là do nguyên nhân khách quan làm thiệt hại một phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư.
Tùy theo nguyên nhân, mức độ, việc xử lý rủi ro được xem xét đối với từng trường hợp cụ thể. Một khoản đầu tư bị rủi ro có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp xử lý.
AN BÌNH