Theo Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), Hoa Kỳ đã chính thức thông báo ban hành quy định mới về phòng vệ thương mại, có hiệu lực kể từ ngày 15/1/2025.
Cụ thể, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã sửa đổi, bổ sung và bãi bỏ một số quy định hiện hành như luật hóa các thủ tục và phương pháp đang áp dụng trên thực tế. Đồng thời, xây dựng hoặc sửa đổi các quy định pháp lý liên quan đến một số vấn đề bao gồm: Thu tiền đặt cọc, việc lựa chọn quốc gia thay thế; thời hạn nộp thông tin thực tế mới; thuế suất riêng rẽ; lựa chọn các bị đơn để điều tra; áp dụng dữ liệu bất lợi sẵn có; các khoản trợ cấp và một số sửa đổi khác.
Cục Phòng vệ thương mại khuyến nghị hiệp hội và các doanh nghiệp xuất khẩu nghiên cứu kỹ quy định phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ trong quá trình xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ. Ảnh: TTXVN
Nội dung sửa đổi quy định như sau:
Quy định về thu tiền đặt cọc
Quy định mới xác định rõ khi nào áp dụng mức tiền đặt cọc theo đơn vị (per-unit basis) thay vì theo tỷ lệ phần trăm trên giá trị nhập khẩu (ad valorem). Trong một số trường hợp, Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể yêu cầu tính theo đơn vị nếu không có đủ thông tin để tính theo phương pháp ad valorem hoặc việc áp dụng mức tiền đặt cọc theo đơn vị phản ánh chính xác hơn thực tế giao dịch.
Quy định về lựa chọn quốc gia thay thế
Chuyển sang sử dụng GDP (thay cho GNI như quy định cũ hay sử dụng cả GDP và GNI như dự thảo tháng 7 năm 2024) để xác định các quốc gia có mức độ phát triển kinh tế tương đương với từng quốc gia có nền kinh tế phi thị trường. Danh sách các quốc gia thay thế cho Việt Nam (cập nhật hàng năm) sẽ được Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố sau khi ban hành quy định mới này.
Xem xét các quốc gia là nhà sản xuất đáng kể hàng hóa có thể so sánh với hàng hóa đang được đề cập. Theo đó, sau khi ban hành danh sách quốc gia thay thế, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chọn quốc gia là nhà sản xuất đáng kể hàng hóa có thể so sánh trong số các quốc gia tương đồng về kinh tế.
Nếu có hơn một quốc gia có sự phát triển kinh tế tương đương và sản xuất hàng hóa tương tự có thể được xem là quốc gia thay thế tiềm năng, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ xem xét tổng thể thông tin khi lựa chọn quốc gia thay thế. Các tiêu chí này bao gồm: Tính sẵn có, khả năng tiếp cận dữ liệu và chất lượng dữ liệu từ các quốc gia đó và sự tương đồng của các sản phẩm được sản xuất tại các quốc gia thay thế tiềm năng so với hàng hóa bị điều tra.
Thời hạn nộp thông tin thực tế mới
Sửa đổi quy định về thời gian nộp các thông tin thực tế theo hướng chặt hơn: Muộn nhất 60 ngày trước khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ ban hành kết luận sơ bộ hoặc kết quả rà soát sơ bộ trong vụ việc chống bán phá giá và 45 ngày trong vụ việc chống trợ cấp (trong khi thời hạn cũ là muộn nhất 30 ngày) để Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thêm thời gian xem xét các đề xuất về nước/giá trị thay thế để tính toán biên độ chống bán phá giá và ngưỡng chuẩn (benchmark) của nước thay thế để tính toán biên độ trợ cấp cho các nước có nền kinh tế phi thị trường.
Về việc xác định thuế suất riêng rẽ cho các doanh nghiệp thuộc các nước có nền kinh tế phi thị trường
Các thay đổi chính sách xác định thuế suất riêng rẽ cho các doanh nghiệp thuộc các nước có nền kinh tế phi thị trường trong tập trung vào nội dung sau:
Siết chặt tiêu chí đánh giá quyền sở hữu nhà nước: Bộ Thương mại Hoa Kỳ bổ sung quy định trường hợp nếu nhà nước sở hữu đa số trên 50% hoặc bằng/dưới 50% nhưng có quyền kiểm soát/chi phối các quyết định sản xuất/kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ không được hưởng thuế suất riêng rẽ. 4 trường hợp nhà nước sở hữu bằng/dưới 50% nhưng có quyền kiểm soát/chi phối các quyết định sản xuất/thương mại của doanh nghiệp gồm:
Cổ phần sở hữu của nhà nước cho phép kiểm soát hoặc ảnh hưởng lớn hơn đối với các quyết định sản xuất, thương mại và xuất khẩu của thực thể so với thông thường và mức độ kiểm soát hoặc ảnh hưởng là đáng kể; nếu Chính phủ có thẩm quyền phủ quyết hoặc kiểm soát các quyết định sản xuất, thương mại và xuất khẩu; quan chức, nhân viên, thành viên công đoàn do Chính phủ bổ nhiệm hoặc do Chính phủ kiểm soát, đại diện của Chính phủ hoặc thành viên gia đình của họ đã được bổ nhiệm làm quan chức hoặc người quản lý đơn vị, thành viên hội đồng quản trị hoặc các cơ quan quản lý khác trong doanh nghiệp, có khả năng đưa ra hoặc ảnh hưởng đến các quyết định sản xuất, thương mại và xuất khẩu; có luật hoặc văn bản (như điều lệ thành lập, yêu cầu thực tế) quy định một hoặc nhiều quan chức, nhân viên, thành viên công đoàn do Chính phủ bổ nhiệm hoặc do Chính phủ kiểm soát hoặc đại diện của Chính phủ với tư cách là cán bộ hoặc người quản lý, thành viên ban giám đốc hoặc cơ quan quản lý khác trong trong doanh nghiệp có khả năng đưa ra hoặc ảnh hưởng đến các quyết định sản xuất, thương mại và xuất khẩu.
Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng bổ sung quy định các yếu tố để xem xét doanh nghiệp có chịu sự kiểm soát của Chính phủ về mặt pháp luật và trên thực tế.
Mở rộng phạm vi áp dụng đối với doanh nghiệp xuất khẩu từ nước thứ ba: Nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ xác định rằng doanh nghiệp có trụ sở tại nước thứ ba nhưng thực chất vẫn bị kiểm soát bởi Chính phủ nền kinh tế phi thị trường, doanh nghiệp đó có thể bị áp mức thuế suất toàn quốc.
Rút ngắn thời gian nộp hồ sơ xin thuế suất riêng rẽ: Theo đó, trước đây, doanh nghiệp có 30 ngày sau khi công bố quyết định điều tra để nộp đơn xin hưởng thuế suất riêng rẽ. Quy định mới rút ngắn thời hạn xuống 21 ngày nhằm giúp Bộ Thương mại Hoa Kỳ nhanh chóng lựa chọn các doanh nghiệp tham gia điều tra chính thức.
Về lựa chọn bị đơn bắt buộc và bị đơn tự nguyện
Bộ Thương mại Hoa Kỳ bổ sung quy định luật hóa phương pháp lựa chọn số lượng hợp lý bị đơn bắt buộc trong điều tra và rà soát chống bán phá giá/chống trợ cấp. Theo đó, các nhà xuất khẩu lớn nhất về lượng được coi là đại diện cho các nhà xuất khẩu khác không được lựa chọn làm bị đơn bắt buộc và mức thuế được tính cho bị đơn bắt buộc là cơ sở để tính mức thuế cho những nhà xuất khẩu khác.
Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể hủy bỏ việc chọn một bị đơn bắt buộc nếu bị đơn và nguyên đơn đồng ý miễn trừ trong vòng 5 ngày sau khi chọn. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng bổ sung quy định lựa chọn bị đơn tự nguyện trong điều tra/rà soát.
Về áp dụng dữ liệu bất lợi sẵn có
Bổ sung quy định cho phép Bộ Thương mại Hoa Kỳ có thể áp dụng một phần hoặc toàn bộ các dữ liệu bất lợi sẵn có khi doanh nghiệp/Chính phủ xuất khẩu không hợp tác; có thể sử dụng bất kỳ biên độ trợ cấp đã tính toán cho các chương trình giống hệt hoặc tương tự của cùng một quốc gia hoặc bất kỳ chương trình nào khác mà Bộ Thương mại Hoa Kỳ cho là hợp lý khi áp dụng dữ liệu bất lợi sẵn có trong vụ việc chống trợ cấp; có thể sử dụng bất kỳ biên độ bán phá nào trong vụ việc điều tra/rà soát lệnh áp thuế chống bán phá giá với sản phẩm bị điều tra khi áp dụng dữ liệu bất lợi sẵn có; thậm chí sử dụng biên độ trợ cấp và bán phá giá cao nhất mà không cần phải ước tính mức thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp trong trường hợp doanh nghiệp/Chính phủ xuất khẩu hợp tác và không cần phải chứng minh biên độ này phản ánh "thực tế thương mại" của bên liên quan.
Về các khoản trợ cấp
Bộ Thương mại Hoa Kỳ bổ sung quy định xác định trợ cấp thông qua mua hàng của Chính phủ từ một doanh nghiệp với giá cao hơn giá trị thị trường thực tế (MTAR), có mang lại lợi ích không chính đáng cho doanh nghiệp không.
Bộ Thương mại Hoa Kỳ bổ sung quy định mới về việc một công ty có thể nhận được trợ cấp xuất khẩu liên quan đến lợi ích từ việc miễn hoặc giảm thuế trực thu (ví dụ thuế thu nhập) hoặc thuế gián thu (ví dụ thuế nhập khẩu) hoặc phí nhập khẩu trong trường hợp thuế do công ty phải trả khi có chương trình này ít hơn khi không có chương trình này, bao gồm cả do công ty nằm trong khu vực phi thuế quan do Chính phủ xuất khẩu thành lập.
Nếu công ty nhận trợ cấp là công ty cổ phần, bao gồm một công ty mẹ có hoạt động kinh doanh riêng, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ phân bổ khoản trợ cấp theo doanh thu hợp nhất của công ty mẹ và các công ty con.
Nếu có sự sở hữu chéo giữa một nhà sản xuất đầu vào cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho nhà sản xuất ở hạ nguồn và việc sản xuất sản phẩm đầu vào được thực hiện chủ yếu dành riêng cho việc sản xuất các sản phẩm hạ nguồn, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ phân bổ các khoản trợ cấp mà nhà sản xuất đầu vào nhận được trên tổng doanh thu của sản phẩm đầu vào và sản phẩm hạ nguồn được sản xuất bởi cả hai doanh nghiệp (không bao gồm doanh thu giữa hai doanh nghiệp).
Nếu có sự sở hữu chéo giữa một công ty cung cấp điện, khí đốt tự nhiên hoặc tiện ích tương tự khác và nhà sản xuất hàng hóa bị điều tra, Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ phân bổ các khoản trợ cấp mà nhà cung cấp đó nhận được vào doanh số bán hàng tổng hợp của nhà cung cấp đó và doanh số bán sản phẩm của nhà sản xuất hàng hóa bị điều tra.
Bỏ quy định các khoản trợ cấp liên kết toàn diện, trợ cấp nông nghiệp và trợ cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là “riêng biệt” và bổ sung quy định cứu trợ thiên tai, đại dịch và trợ cấp hỗ trợ việc làm cho những nhóm lao động theo phân loại chung (như độ tuổi, giới tính và/hoặc tình trạng khuyết tật, cựu chiến binh hoặc tình trạng thất nghiệp dài hạn, nông thôn hoặc thành thị) mà không chỉ hạn chế với các ngành/doanh nghiệp cụ thể không phải là “riêng biệt”, do đó không bị áp thuế chống trợ cấp.
Bổ sung quy định cho phép áp dụng một mức thuế trợ cấp duy nhất trên toàn quốc nếu không xác định được mức thuế riêng rẽ và làm rõ rằng mức thuế suất toàn quốc (wide-entity rate) của một nước có nền kinh tế phi thị trường không giống với mức thuế suất khác (all-others rate) của các nước có nền kinh tế thị trường.
Quy định mới về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ xem tại đây
Theo Cục Phòng vệ thương mại, quy định sửa đổi lần này được ban hành chỉ trong vòng chưa đầy 1 năm kể từ lần sửa đổi gần nhất (có hiệu lực ngày 24/4/2024). Vì vậy, để bảo vệ lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, Cục Phòng vệ thương mại khuyến nghị hiệp hội và các doanh nghiệp xuất khẩu nghiên cứu kỹ quy định phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ trong quá trình xuất khẩu hàng hóa sang nước này.
Bảo Thoa