Chuyển từ “chống nước” sang “sống cùng nước” là hướng tiếp cận mà nhiều chuyên gia đề xuất Hà Nội cần thực hiện, để thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Thách thức của đô thị hóa nhanh
Liên tiếp trong tháng 9 và tháng 10, Hà Nội hứng chịu những đợt mưa lớn gây ngập cục bộ nhiều khu vực. Theo thống kê của Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội, riêng đêm 30/9, lượng mưa tại nhiều điểm vượt 300mm, khiến một số tuyến phố ngập sâu, giao thông đi lại khó khăn. Tình trạng này không mới, song mỗi lần mưa lớn, câu chuyện ngập đô thị lại trở thành vấn đề phải bàn thảo. Giới chuyên môn nhìn nhận, ngập úng không chỉ do lượng mưa vượt quá khả năng thiết kế của hệ thống thoát nước, mà còn liên quan trực tiếp đến công tác quy hoạch và phát triển đô thị nhiều năm qua.
Các sông, hồ ở Hà Nội góp phần tiêu thoát nước hiệu quả vào mùa mưa, bão. Ảnh: Phạm Hùng
Theo các chuyên gia, một đô thị hiện đại không thể chỉ trông chờ vào cống, mương, trạm bơm. Nếu toàn bộ mặt đất đều bê tông hóa, nước mưa không có chỗ thấm, ngập sau vài giờ mưa lớn là điều khó tránh. Thực tế cho thấy, cùng với quá trình đô thị hóa nhanh, một số hồ, ao, kênh mương tự nhiên ở Hà Nội bị thu hẹp; đất thấm, đất bán thấm dần nhường chỗ cho bề mặt bê tông. Nhiều khu đô thị mới san nền cao, trong khi khu vực xung quanh giữ cao độ thấp hơn gây ngập cục bộ sau mưa.
Nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch đô thị nông thôn quốc gia Ngô Trung Hải nhận định, đây là hệ quả của phát triển nhanh, chưa tính đến mối quan hệ tổng thể giữa đô thị và hệ thống tự nhiên.
Hà Nội không thể chạy theo việc “chống ngập” từng trận mưa, mà phải chủ động sống chung, giảm thiểu thiệt hại và có chiến lược lâu dài trong quy hoạch. Nếu biết chấp nhận và thiết kế đô thị thích ứng như mô hình “TP bọt biển” mà nhiều nước đang theo đuổi thì những trận mưa cực đoan sẽ không còn là thảm họa.
Mặt khác, dù Hà Nội có nhiều hồ nhưng diện tích nhỏ, khả năng điều tiết nước hạn chế. Một số hồ nằm tách biệt, không được kết nối với hệ thống thoát nước chung nên chưa phát huy hiệu quả. Trong khi đó, các tuyến sông như Tô Lịch, Nhuệ, Kim Ngưu vẫn chịu áp lực lớn về tiêu thoát. Điều này cho thấy, công tác quy hoạch thoát nước và quy hoạch đô thị cần được xem xét đồng bộ, hướng tới khả năng thích ứng lâu dài.
Tại khu vực nội đô mở rộng như Thanh Xuân, Hà Đông, Từ Liêm… tình trạng san lấp các hồ, ao, sông, mương để phát triển mô hình nhà ở thấp tầng xen lẫn mô hình nhà ở cao tầng vừa làm mất đi không gian công cộng, không gian cảnh quan mặt nước, không gian xanh, vừa tạo ra mật độ xây dựng cao và bê tông hóa kín không gian mặt đất dẫn đến úng ngập, sụt lún.
TS Nguyễn Viết Định - Học viện Hành chính và Quản trị công
TS Trần Văn Miều - Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam chia sẻ, 90% nguyên nhân của biến đổi khí hậu đến từ con người, chỉ khoảng 10% là do yếu tố tự nhiên. Riêng với tình trạng ngập lụt ở các đô thị lớn như Hà Nội, phần lớn là do chưa thực hiện được những giải pháp rốt ráo, khả thi. Quy hoạch là yếu tố then chốt, đặc biệt quy hoạch đô thị phải đi đôi với quy hoạch giao thông, đồng thời tính đến hệ thống thoát nước ngầm. Các nhóm giải pháp cụ thể, bao gồm: Quy hoạch công trình ngầm đồng bộ, ở đó, hệ thống cống thoát nước, cáp quang, bưu chính viễn thông, đường ống cấp nước… cần được thiết kế và thi công tích hợp. Tiếp đến, cần chú trọng đến yếu tố kỹ thuật xây dựng, xác định cốt nền hợp lý để bảo đảm khả năng thoát nước kịp thời; khơi thông dòng chảy tự nhiên, các sông rạch trong đô thị. Mặt khác, tăng cường khả năng thấm hút tự nhiên thông qua việc mở rộng diện tích cây xanh, công viên và thảm cỏ.
Từ “chống nước” sang “sống cùng nước”
Với một TP chịu tác động trực tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa, việc mưa lớn gây ngập không thể tránh tuyệt đối. Vì thế, thay vì chỉ tập trung vào chống ngập, nhiều chuyên gia đề xuất Hà Nội nên tiếp cận theo hướng “sống cùng nước”.
Giải pháp “sống cùng nước” thể hiện ở việc coi nước là một thành tố tự nhiên trong đô thị, được giữ lại, điều tiết hợp lý. Khi quy hoạch được tích hợp theo hướng này, mỗi khu công viên, hồ điều hòa, kênh rạch đều đóng vai trò như “túi chứa nước”, giúp đô thị không bị quá tải mỗi khi mưa lớn. Các chuyên gia cho rằng, muốn Hà Nội hết ngập, phải giải quyết bài toán tiêu nước trước khi bàn chuyện thoát nước. Nếu không có nơi chứa, hệ thống cống dù lớn đến đâu cũng chỉ là giải pháp tình thế.
Thực tế, nhiều nước đã thành công khi thay đổi tư duy này. Hà Lan - quốc gia có 1/3 diện tích nằm dưới mực nước biển, họ "sống cùng nước” bằng hệ thống đê mềm, hồ trữ nước, quảng trường ngập tạm thời. Ở Singapore, các công viên, quảng trường đều được thiết kế có khả năng chứa nước mưa, vừa tạo cảnh quan, vừa giảm ngập.
Với Hà Nội, việc "sống cùng nước" không chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật, mà còn thể hiện tầm nhìn phát triển bền vững. TP cần coi mặt nước, cây xanh, công viên, đất trũng tự nhiên là hạ tầng quan trọng không kém đường, điện.
Để hiện thực hóa việc "sống cùng nước", Hà Nội cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ quy hoạch tổng thể đến quản lý chi tiết. Trước hết, quy hoạch các khu đô thị mới phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc phân lưu vực tiêu thoát nước. Việc san nền, nâng cốt cần được xem xét kỹ, tránh tình trạng khu vực mới cao hơn khu dân cư hiện hữu. Đồng thời, tỷ lệ đất cây xanh, mặt nước cần được bảo đảm theo đúng tiêu chuẩn, không cắt giảm để tăng diện tích xây dựng.
Song song, cần đẩy mạnh ứng dụng các vật liệu và công nghệ thấm nước trong hạ tầng đô thị. Vỉa hè, sân chơi, bãi đỗ xe có thể sử dụng gạch thấm; công viên, quảng trường nên được thiết kế với bể trữ nước ngầm để tạm giữ nước mưa, giảm tải cho cống rãnh. Về lâu dài, Hà Nội cần hoàn thiện quy hoạch thoát nước tổng thể theo hướng tích hợp - không tách rời quy hoạch xây dựng, giao thông và môi trường. Theo định hướng của TP, đến năm 2030, toàn bộ hệ thống tiêu thoát nước sẽ được phân theo 8 lưu vực chính, gắn với hệ thống hồ, sông và trạm bơm đầu mối. Khi quy hoạch đồng bộ, mỗi lưu vực sẽ có khả năng chịu mưa độc lập, giảm áp lực cho khu vực trung tâm.
Bên cạnh đó, cần coi trọng yếu tố quản lý, vận hành. Dù hạ tầng tốt đến đâu, nếu không được duy tu thường xuyên cũng nhanh chóng xuống cấp. Việc nạo vét kênh mương, khơi thông cống rãnh cần được thực hiện định kỳ, đặc biệt trước mùa mưa bão. Cùng với đó, cần nâng cao ý thức người dân trong việc giữ gìn hệ thống thoát nước, không xả rác, không lấn chiếm dòng chảy.
Hà Nội hiện phát sinh hơn 1 triệu m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày đêm, nhưng tỷ lệ nước thải được xử lý đạt chuẩn vẫn dưới 30%. Nhiều sông hồ nội thành đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do nước thải xả trực tiếp. Trong khi đó, trung bình mỗi năm Hà Nội có lượng mưa từ 1.600 - 1.800mm, nhưng phần lớn chảy tràn gây ngập úng và không được tận dụng. Việc xử lý và tái sử dụng nước thải có thể mở ra nhiều cơ hội: dùng nước tái chế để tưới cây, rửa đường, bổ sung cho hồ điều hòa hoặc phục vụ sản xuất công nghiệp. Nhiều quốc gia đã thành công trong việc tái sử dụng nước thải, vừa giảm ô nhiễm vừa tiết kiệm nguồn nước sạch. Hà Nội hoàn toàn có thể áp dụng mô hình này, gắn với các công trình cảnh quan sinh thái như hồ điều hòa, vườn mưa, công viên nước. Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng xanh – như hồ sinh thái, công viên ngập nước, hành lang sông xanh – không chỉ hỗ trợ xử lý và điều tiết nước mà còn nâng cao giá trị cảnh quan, tạo không gian sống chất lượng cho người dân. Đây là hướng đi tất yếu để xây dựng một đô thị vừa hiện đại, vừa hài hòa với thiên nhiên.
PGS.TS Đoàn Thu Hà - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường
Lại Tấn