Quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo - Nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam

Quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo - Nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam
7 giờ trướcBài gốc
Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ cùng áp lực ngày càng gia tăng từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, việc phát triển năng lượng tái tạo đã trở thành yêu cầu cấp thiết ở Việt Nam. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng về năng lượng tái tạo. Vì vậy, xu hướng tất yếu trong tương lai là mở rộng khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Do đó, để khai thác, sản xuất, sử dụng các năng lượng tái tạo một cách hợp lý, hiệu quả, cần thiết phải có quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo. Bài viết tập trung giới thiệu về quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam, đồng thời tham khảo kinh nghiệm lập pháp của Trung Quốc, từ đó gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch phát triển điện năng lượng tái tạo.
Từ khóa: Năng lượng tái tạo: quy hoạch, phát triển năng lượng tái tạo.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, nhà nước can thiệp nhằm phát triển năng lượng tái tạo theo các phương thức: (i) nhà nước có những biện pháp hỗ trợ, thúc đẩy, khuyến khích phát triển khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (ii) nhà nước có các biện pháp nhằm hạn chế khai thác, sản xuất và sử dụng những nguồn năng lượng có tác động tiêu cực tới môi trường như nhiệt điện, than, khí.. vv. Hai phương thức này được thực hiện đồng thời thông qua quá trình xây dựng, thực thi chính sách pháp luật, bao gồm:
- Lập quy hoạch phát triển;
- Xây dựng, tổ chức thực hiện các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ khai thác, sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo, bao gồm: Ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, phí; Ưu đãi về hạ tầng đất đai; Ưu đãi về thị trường đầu ra …vv.
- Xây dựng, tổ chức thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác, sản xuất, sử dụng những nguồn năng lượng có tác động tiêu cực tới môi trường;
Trong đó, việc lập quy hoạch là nền tảng, tiền đề cho sự phát triển và thực thi các chính sách cụ thể của mỗi quốc gia. Quy hoạch có vai trò rất quan trọng trong phát triển đất nước nói chung và được xác định như là một trong những động lực cho tăng trưởng của ngành/ lĩnh vực cụ thể. Chính vì vậy, để tạo được động lực tăng trưởng mới, khai thác hết tiềm năng cho phát triển năng lượng tái tạo, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo cần phải dài hơi và đi trước một bước; phải là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển năng lượng tái tạo.
2. Pháp luật Việt Nam về quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo
Trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp luật nhằm thể chế hóa định hướng phát triển năng lượng tái tạo nhằm tận dụng tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, sinh khối, thủy điện và địa nhiệt nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, đảm bảo phù hợp với thực tiễn phát triển và các cam kết về phát triển bền vững, đặc biệt là cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (net zero) vào năm 2050 tại COP 26 đã khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và bền vững.
Tuy nhiên, rà soát quy định pháp luật tại Luật Quy hoạch năm 2017 và Luật Điện lực năm 2024 cho thấy Việt Nam không lập quy hoạch riêng về phát triển năng lượng tái tạo. Vậy nội dung quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo nằm ở đâu trong hệ thống quy hoạch của Việt Nam?
2.1. Giai đoạn trước khi Luật Quy hoạch năm 2017 ban hành và thống nhất quy định về quy hoạch tại Việt Nam
Bước ngoặt đầu tiên cho sự phát triển của năng lương tái tạo là việc Việt Nam ban hành Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050 tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu điện sản xuất từ năng lượng tái tạo (bao gồm cả thủy điện lớn và nhỏ) trong tổng điện năng sản xuất của quốc gia phải đạt 32% vào năm 2030 và 43% vào năm 2050. Tuy nhiên, thời điểm này rà soát cho thấy Việt Nam chưa có văn bản đề cập đến nội dung quy hoạch cho phát triển năng lượng tái tạo, thậm chí là tại 07 Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia qua các thời kỳ.
Năng lượng tái tạo chỉ thực sự phát triển kể từ khi có Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18 tháng 03 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến 2030 (gọi tắt là Quy hoạch điện 7 điều chỉnh), nội dung quy hoạch phát triển năng lượng tái tạo đã được lồng ghép vào quy hoạch phát triển điện lực quốc gia.
Về trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch, nếu như các Quy hoạch điện trước đó được lập căn cứ Luật Điện lực số 28/2004/QH11 và theo hướng dẫn tại Quyết định số 42/2005/QĐ-BCN ngày 30/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp về quy định nội dung trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt Quy hoạch điện, thì Quy hoạch điện 7 điều chỉnh được lập sau khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực, số 24/2012/QH13 và theo hướng dẫn tại Thông tư số 43/TT-BCT ngày 21/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định nội dung, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực.
Theo đó, thẩm quyền lập, phê duyệt/điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực quốc gia do Bộ Công Thương tổ chức lập trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong khi đó, đối với quy hoạch phát triển điện lực tỉnh: i) Hợp phần Quy hoạch phát triển hệ thống điện 110kV do Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt; ii) Hợp phần Quy hoạch chi tiết phát triển lưới điện trung áp và hạ áp sau các trạm 110kV do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Nội dung Quy hoạch điện 7 điều chỉnh có 6 nội dung cập nhật, gồm: i) Cập nhật dự báo phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn quy hoạch; ii) Cập nhật dự báo nhu cầu điện theo tỉnh, vùng miền và tổng hợp toàn quốc cho từng giai đoạn quy hoạch; iii) Cập nhật các thông số đầu vào cho lập quy hoạch, đánh giá nguồn năng lượng sơ cấp và giá nhiên liệu cho sản xuất điện; iv) Cập nhật và bổ sung chương trình phát triển nguồn điện; v) Cập nhật và bổ sung chương trình phát triển lưới điện truyền tải từ cấp điện áp 220kV trở lên; vi) Cập nhật và bổ sung các cơ chế thực hiện quy hoạch.
Trong đó, tại Quy hoạch điện 7 điều chỉnh đã đưa ra chương trình phát triển nguồn, lưới cho giai đoạn quy hoạch còn lại và danh mục nguồn điện dự kiến sẽ được xây dựng và vào vận hành trong giai đoạn đến năm 2030 để đảm bảo cung cấp điện toàn quốc, có tổng cộng 116 dự án nguồn điện cần được đầu tư và đưa vào vận hành (chưa bao gồm các dự án NLTT). Đối với dự án nguồn điện năng lượng tái tạo, tập trung ưu tiên phát triển các dự án nguồn thủy điện, nguồn điện gió, nguồn năng lượng sinh khối và nguồn điện sử dụng năng lượng mặt trời theo hướng: “Đẩy nhanh phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo (thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối v.v...), từng bước gia tăng tỷ trọng của điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện.”
Trên cơ sở Quy hoạch điện 7 và Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương đã thực hiện lập quy hoạch điện lực cho các giai đoạn 2011-2020, giai đoạn 2016-2025, có xét đến 2035. Quy hoạch điện 7 điều chỉnh và Quy hoạch điện lực tỉnh, thành phố đã thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để quản lý đầu tư ngành điện, đảm bảo đáp ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước.
Cùng với đó, quá trình thực hiện Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, Chính phủ, Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng và ban hành một số quyết định khuyến khích, nhằm thúc đẩy phát triển NLTT, nhất là điện mặt trời và điện gió. Điển hình như Quyết định 11/2017/QĐ-TTg, Quyết định 13/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam; Quyết định 37/2011/QĐ-TTg, Quyết định 39/2018/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam. Theo đó, các nhà đầu tư nguồn điện năng lượng tái tạo được hưởng giá cố định (giá FIT) trong một khoảng thời gian nhất định, nhờ đó ngành điện Việt Nam và năng lượng tái tạo cho phát điện giai đoạn này đã có bước tiến nhanh cả về quy mô và thời gian xây dựng.
Tuy nhiên, do phát triển nóng các nguồn điện NLTT đã gây quá tải cục bộ lưới điện truyền tải ở một số khu vực; gây khó khăn cho việc đảm bảo vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện. Với việc phát triển nhanh các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt thời gian đầu tư các dự án điện gió, mặt trời ngắn và tập trung chủ yếu tại một số khu vực tiềm năng như: Ninh Thuận, Bình Thuận, Đăk Lăk, Gia Lai, Quảng Trị, các tỉnh khu vực Tây Nam bộ… đã gây áp lực lớn lên hệ thống điện truyền tải (do không đáp ứng yêu cầu đồng bộ về tiến độ đầu tư). Các nguồn điện NLTT (chủ yếu là mặt trời) lại thực hiện vượt quá mức quy hoạch, điều này đã dẫn tới khó khăn trong cân đối cung cấp điện do số giờ vận hành tương đương của nguồn NLTT chỉ bằng khoảng 1/3 so với số giờ vận hành tương đương của nguồn nhiệt điện truyền thống [3].
2.2. Giai đoạn từ khi có Luật Quy hoạch năm 2017
Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội đã thông qua Luật Quy hoạch tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Đây chính là cơ sở để việc lập, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch được thực hiện theo một quy trình mới. Luật Quy hoạch năm 2017 quy định nhiều loại quy hoạch ở nhiều cấp độ, phạm vi và lĩnh vực khác nhau, như: quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh. Bên cạnh đó, để phát triển năng lượng, điện, Việt Nam có Quy hoạch tổng thể về năng lượng, Quy hoạch phát triển điện lực.
Về thẩm quyền, Luật Quy hoạch quy định Bộ Công Thương tổ chức lập quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia và quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong khi đó, đối với quy hoạch cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức lập quy hoạch tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó phương án nguồn điện và lưới điện sẽ được Ủy ban nhân tỉnh xây dựng và tích hợp vào Quy hoạch tỉnh. Trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch sẽ hoàn toàn tuân theo Luật Quy hoạch mà không phụ thuộc vào pháp luật chuyên ngành.
Sau khi có Luật Quy hoạch, chính sách ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo nhanh, bền vững được củng cố hơn sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trên cơ sở Luật Quy hoạch và Nghị quyết số 55-NQ/TW, việc phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam giai đoạn này được hoạch định tại Quy hoạch tổng thể quốc gia về năng lượng và quy hoạch điện lực quốc gia cụ thể:
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 tại Quyết định số 893/QĐ-TTg (gọi tắt là Quy hoạch năng lượng quốc gia), theo đó xác định rõ các loại hình năng lượng tái tạo được đưa vào quy hoạch gồm có: (1) Năng lượng gió; (2) Năng lượng mặt trời; (3) Năng lượng sinh khối; (4) Năng lượng chất thải rắn; (5) Thủy điện nhỏ và (6) Năng lượng tái tạo khác (thủy triều, địa nhiệt và khí sinh học); năng lượng mới (hydro, amoniac và các nhiên liệu có nguồn gốc từ hydro). Đồng thời, xác định định hướng NLTT cho các ngành sản xuất như sau: phát điện; năng lượng tái tạo cho sản xuất nhiệt và năng lượng tái tạo cho các ngành khác như sản xuất điện, giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không), công nghiệp (thép, hóa chất, lọc dầu, công nghiệp khác...), tòa nhà dân dụng và thương mại nhằm góp phần đẩy mạnh chuyển dịch năng lượng và từng bước phi các-bon hóa nền kinh tế.
Ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2050 tại Quyết định số 500/QĐ-TTg (Gọi tắt là Quy hoạch Điện 8). Nội dung của Quy hoạch điện 8 tập trung vào các mục: dự báo nhu cầu tiêu thụ điện; tính toán xác định chương trình phát triển nguồn điện, lưới điện quốc gia; tính toán nhu cầu vốn đầu tu và phân tích kinh tế, tài chính của phương án phát triển điện lực; bảo vệ môi trường trong phát triển điện lực. Trong đó, đặt mục tiêu phát triển các nguồn năng lượng tái tạo chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nguồn điện cho giai đoạn 2030 đến 2050 để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không. Cụ thể là NLTT (bao gồm Gió, Mặt trời, Thủy điện, Sinh khối, Tích năng…) sẽ đạt tỷ trọng 50% vào năm 2030 và 77% vào năm 2050 (chưa tính đến LNG chuyển đổi đốt hydrogen hoàn toàn), trong tổng công suất của hệ thống điện.
Quy hoạch điện 8 cũng vạch ra định hướng phát triển mạnh điện gió ngoài khơi kết hợp với các loại hình năng lượng tái tạo khác (điện mặt trời, điện gió trên bờ…) để sản xuất năng lượng mới (hydro, amoniac xanh…) phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Các nguồn điện năng lượng tái tạo sản xuất năng lượng mới phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu được ưu tiên/cho phép phát triển không giới hạn trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh năng lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, trở thành một ngành kinh tế mới của đất nước.
Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch điện 8 xác định các phương án phát triển nguồn điện, phương án phát triển lưới điện, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực, định hướng phát triển điện nông thôn, định hướng phát triển sinh thái công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo và nhu cầu vốn đầu tư. Đồng thời, giao Bộ Công Thương chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, hệ thống sơ đồ, dữ liệu. Bộ Công Thương cũng được giao hoàn thiện xây dựng và trình Chính phủ Luật Điện lực sửa đổi và Luật về năng lượng tái tạo để trình Quốc hội trong năm 2024; trình Chính phủ ban hành các chính sách về mua bán điện trực tiếp.
Sau khi Quy hoạch điện 8 được phê duyệt, Bộ Công Thương đã xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành một số văn bản quan trọng, bao gồm Luật Điện lực năm 2024, các nghị định về mua bán điện trực tiếp, khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà và hệ thống thông tư về khung giá năng lượng tái tạo, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cho các dự án năng lượng; Quyết định số 262/QĐ-TTg ngày 1/4/2024 và Quyết định số 1682/QĐ-TTg ngày 28/12/2024.
Nhìn vào Quy hoạch điện 8 cho thấy giai đoạn 2030 - 2045, hệ thống năng lượng/hệ thống điện Việt Nam sẽ trải qua một quá trình chuyển đổi cơ bản về cơ cấu nguồn, từ chỗ chủ yếu dựa vào nguồn nhiên liệu hóa thạch chuyển sang nguồn năng lượng sạch, NLTT, sử dụng hiệu quả năng lượng. Theo đó, trọng tâm chuyển đổi của hệ thống điện Việt Nam bao gồm: NLTT sẽ là nguồn năng lượng chính, khai thác tối đa điện từ NLTT. Với quan điểm phát triển xanh, bền vững, nguồn NLTT trong đó có năng lượng gió, mặt trời trong những thập kỷ tới sẽ là nguồn năng lượng cơ bản của hệ thống năng lượng/hệ thống điện và góp phần trọng yếu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Nguồn điện này sẽ đạt tỉ lệ khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030. Hướng tới đạt tỉ lệ năng lượng tái tạo 47% theo cam kết về chuyển đổi năng lượng công bằng với Việt Nam (JETP). Định hướng đến năm 2050, tỉ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 - 71,5%.
Như vậy, với tầm nhìn dài hạn, Quy hoạch điện 8 đã đưa cụ thể danh mục các dự án nguồn điện lớn, ưu tiên quan trọng cấp quốc gia và đối với các nguồn NLTT (điện gió, mặt trời, thủy điện, điện sinh khối, điện rác và các nguồn khác), Quy hoạch đã đưa ra tổng quy mô công suất phát triển các nguồn điện gió, mặt trời theo phạm vi 6 vùng và theo chu kỳ 5 năm, thuận tiện cho việc lập kế hoạch, điều hành, điều chỉnh và giám sát thực hiện quy hoạch. Tuy nhiên, để đảm bảo điều kiện triển khai thực hiện Quy hoạch điện 8 với nhiệm vụ chính yếu là đảm bảo cấp điện tin cậy ổn định cho phát triển kinh tế, xã hội và phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) nhằm hướng tới phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 vào năm 2050 cần sớm tháo gỡ giải quyết được những thách thức sau:
i) Thách thức do thiếu các quy định pháp lý cần thiết cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nguồn điện theo hướng xanh, sạch, phát triển bền vững;
ii) Những khó khăn từ vận hành hệ thống điện khi hệ thống chưa đủ điều kiện hấp thụ quy mô lớn nguồn NLTT;
iii) Quy hoạch điện 8 đưa ra quy mô điện gió năm 2030 lên tới 27.880 MW (trong đó điện gió trên bờ là 21.880 MW và điện gió ngoài khơi là 6.000 MW) cũng sẽ là thách thức, khi hiện nay mới có khoảng hơn 4.000 MW đã vào vận hành. Bên cạnh đó, việc phân bổ công suất các nguồn điện gió theo các địa phương, đảm bảo hài hòa giữa nhu cầu và điều kiện kỹ thuật của toàn hệ thống với nhu cầu các địa phương để từ đó lựa chọn được nhà đầu tư phát triển dự án sẽ là bài toán không dễ dàng; iv) Tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng công nghệ - tài chính cho phát triển NLTT đang gây những hệ lụy cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, là việc giải quyết khó khăn cho các dự án khi khả năng huy động nguồn vốn cho đầu tư các dự án điện đang gặp nhiều khó khăn, hạn chế….
3. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong phát triển năng lượng tái tạo
Trung Quốc là một trong số những quốc gia đạt được những bước tiến đáng kể trong việc phát triển NLTT, trong đó việc xây dựng nền tảng pháp lý vững chắc là động lực lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp điện lực nói chung và NLTT nói riêng.
Luật Điện lực Trung Quốc ban hành năm 1995 và được sửa đổi gần nhất vào tháng 4/2022 bao gồm 9 chương, mỗi chương có nội dung cụ thể nhằm quản lý và thúc đẩy phát triển ngành điện. Trong đó, tại Chương II quy định về quy hoạch và phát triển, theo đó quy hoạch phát triển điện lực được lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội quốc gia, đồng thời nhấn mạnh việc sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng, phát triển đồng bộ nguồn cung và mạng lưới điện, đồng thời bảo vệ môi trường. Quy hoạch xây dựng và tái cấu trúc mạng lưới điện đô thị cũng được tích hợp vào quy hoạch tổng thể địa phương, đảm bảo sử dụng hiệu quả quỹ đất và tài nguyên. Cùng với đó, việc xây dựng các dự án điện lực phải tuân thủ quy hoạch phát triển điện và chính sách quốc gia.
Cùng với đó, Luật Năng lượng Tái tạo (ban hành năm 2005) đã khởi đầu cho cuộc cách mạng năng lượng sạch, NLTT. Luật gồm 8 chương và đã được sửa đổi vào năm 2009 bao gồm các nội dung chính như: Biện pháp đánh thuế; Truy cập lưới; Tiêu chuẩn kết nối; Quỹ đặc biệt cho phát triển năng lượng tái tạo; Năng lượng tái tạo và Cơ chế đảm bảo tiêu thụ điện năng. Theo Luật này, Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý và phát triển năng lượng tái tạo ở cấp quốc gia, đặt mục tiêu trung và dài hạn, và chuẩn bị kế hoạch thực hiện. Dự án phát điện tái tạo được quản lý qua việc cấp giấy phép hành chính hoặc đấu thầu nếu có nhiều nhà thầu. Các dự án đã cấp phép được đảm bảo kết nối lưới điện và khí đốt, với sản lượng có thể được bán với giá đảm bảo cho công ty lưới điện, nơi giá sẽ được xác định và thông qua bởi cơ quan giá của Hội đồng Nhà nước. Chính quyền địa phương sẽ lập kế hoạch năng lượng tái tạo cho nông thôn cùng với các hỗ trợ tài chính.
Ngoài việc ban hành Luật Điện lực Trung Quốc, Luật Năng lượng Tái tạo (REL), ngày 8/11/2024, Trung Quốc đã thông qua Luật năng lượng (Energy Law) có hiệu lực từ ngày 1/1/2025 nhằm thúc đẩy nỗ lực trung hòa carbon, hướng đến mục tiêu phi carbon hóa nền kinh tế vào năm 2060. Luật Năng lượng gồm 80 Điều, được cấu trúc thành 9 chương, mang đến một khuôn khổ pháp lý toàn diện để định hình tương lai ngành năng lượng và NLTT. Từ quy hoạch năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng, hệ thống thị trường, đến các biện pháp đổi mới khoa học công nghệ và quản lý, luật định vị vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy các ngành công nghiệp cốt lõi của quốc gia. Trong bối cảnh chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, luật đề ra các quy định cụ thể nhằm giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và thay thế bằng năng lượng phi hóa thạch. Luật không chỉ khuyến khích mở rộng năng lượng tái tạo, các nguồn năng lượng như điện hạt nhân, thủy điện, gió, mặt trời và sinh khối được xác định là trọng tâm phát triển, mà còn đặt ra các mục tiêu tiêu thụ cụ thể, yêu cầu các doanh nghiệp và người sử dụng năng lượng phải tuân thủ quy định về tiêu thụ năng lượng sạch.
Bên cạnh việc hoàn thiện khung khổ pháp lý, Chính phủ Trung Quốc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển NLTT cho từng giai đoạn phát triển trong tầm nhìn 5 năm, trung hạn, dài hạn.
i) Giai đoạn 2015 trở về trước: Chính phủ Trung Quốc hoạch định những mục tiêu về tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo từ 11% trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đến 15% trong Kế hoạch lần thứ 12 cùng với các hướng dẫn phát triển cho ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, nội dung các quy hoạch, kế hoạch này mang tính chất của quy hoạch quốc gia này có vị trí đặc biệt trong hệ thống luật, cũng như chính sách về năng lượng tái tạo.
ii) Giai đoạn 2016-2020: Trung Quốc ban hành kế hoạch 5 năm lần thứ 13, trong đó siết chặt cắt giảm tỷ trọng của than trong cơ cấu năng lượng và tăng mục tiêu cho NLTT, với các mục tiêu rõ ràng để thông tắc các điểm nghẽn như: tăng cường các hành lang truyền tải điện đường dài xuyên vùng, tập trung giải quyết ách tắc truyền tải điện từ các vùng giàu tài nguyên năng lượng ở phía Bắc và phía Tây đến các trung tâm phụ tải ở phía Đông, có tính đến yêu cầu phía nhu cầu và khả năng của các vùng tiếp nhận để hấp thụ điện năng; Tăng công suất truyền tải năng lượng tái tạo xuyên tỉnh của các vùng phía Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc lên hơn 40 GW…vv
Bên cạnh đó, Kế hoạch 5 năm thứ 13 có nhiều chính sách nổi bật để phát triển năng lượng tái tạo: (1) Tích cực phát triển bền vững năng lượng điện gió, mặt trời, thủy điện,... (2) Tăng cường hợp tác quốc tế trong ngành NLTT; (3) Tiếp tục phát huy và củng cố các chính sách trợ giá khuyến khích phát triển NLTT và (4) Tiếp tục thúc đẩy nhiều sáng chế và phát minh trong lĩnh vực NLTT bằng việc tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển [1].
iii) Giai đoạn 2021-2025
Với Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 đây là một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện cam kết của Trung Quốc về giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường. Theo đó, Kế hoạch 5 năm đề nghị Chính phủ “xây dựng kế hoạch hành động để đạt mức cao nhất về phát thải carbon trước năm 2030” và “cố gắng để đạt được mức độ trung hòa carbon vào năm 2060”, đồng thời đưa ra mục tiêu: ít nhất một nửa nhu cầu điện tăng lên sẽ được cung cấp bởi năng lượng tái tạo. Công suất lắp đặt năng lượng tái tạo đạt 1,8 triệu GW vào năm 2025, tăng 50% so với năm 2021, năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng 35% tổng sản lượng điện của Trung Quốc vào năm 2025[2].
Điểm mới trong kế hoạch 5 năm lần thứ 14 là đã bỏ đi các mục tiêu về tăng công suất phát điện bắt buộc ở các khu vực nông thôn và miền núi và điều chỉnh một số mục tiêu khác, bao gồm: Điều chỉnh mục tiêu về công suất lắp đặt điện mặt trời từ 700 GW xuống 600 GW do lo ngại về khả năng tiêu thụ và điều chỉnh mục tiêu về công suất lắp đặt điện gió từ 450 GW xuống 350 GW do lo ngại về tác động môi trường.
Bên cạnh đó, để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, kế hoạch 5 năm lần thứ 14 đã đưa ra một số các chính sách và biện pháp nổi bật: là phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng và tích hợp thông tin và năng lượng.
Với Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 về năng lượng tái tạo được đánh giá sẽ mang lại cho hệ thống điện sự linh hoạt và khả năng phục hồi cần thiết hơn để sử dụng nhiều năng lượng tái tạo hơn, đồng thời cũng chấm dứt các giới hạn trên về mức tiêu thụ than trên mỗi kilowatt giờ - chuẩn bị cho việc cải tiến các máy phát điện chạy bằng than để có thể cung cấp các dịch vụ điều tiết cao điểm cho năng lượng tái tạo.
Như vậy, thông qua quá trình phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc có thể thấy, Trung Quốc đã lên kế hoạch rất chi tiết cho từng giai đoạn, tạo được nền móng vững chắc và rất nỗ lực thực hiện việc chuyển đổi năng lượng của nước mình. Các mục tiêu về công suất, tỉ trọng cũng như kế hoạch phân công phát triển của từng bộ ngành, các cấp được quy định cụ thể. Bên cạnh đó, với những chính sách chuyển đổi năng lượng quyết liệt của chính phủ cùng với một hệ thống pháp luật toàn diện về NLTT, Trung Quốc đã và đang đạt được những bước tiến lớn về năng lượng tái tạo.
Giai đoạn 2016-2020 với những mục tiêu và các chính sách nổi bật, cùng với sự đầu tư mạnh tay từ phía Chính phủ (năm 2017, Trung Quốc chiếm gần một nửa tổng đầu tư toàn cầu vào năng lượng tái tạo), tổng công suất lắp đặt năng lượng tái tạo của Trung Quốc đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2016-2020, từ 530 GW lên 1.100 GW. Năng lượng tái tạo chiếm 36,6% tổng công suất điện lắp đặt của Trung Quốc và 26,4% tổng sản lượng điện Trung Quốc đã tăng thêm 71,67 GW công suất điện gió vào năm 2020, mức cao nhất từ trước đến nay và gần gấp 3 lần mức của năm 2019. Đặc biệt, Trung Quốc đã thực hiện được hầu hết các mục tiêu đã đề ra với hiệu quả lên đến 80%. Sau kế hoạch 5 năm lần thứ 13, Trung Quốc đã trở thành một trong những quốc gia gia hàng đầu thế giới về sản phẩm điện mặt trời và gió[1]. Trong những năm gần đây, điện NLTT của Trung Quốc phát triển mạnh mẽ và tăng trưởng liên tục ở mức bình quân 11,4% mỗi năm, trong đó điện gió và điện mặt trời tăng 27,8% năm 2023 so với cùng kỳ. Trong 2.920 GW tổng công suất đặt của toàn hệ thống, có 1.260 GW thuộc về NLTT.
4. Một số gợi mở cho Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc
Thứ nhất, việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển NLTT cần hoạch định những ưu tiên NLTT cho nông thôn và vùng sâu, vùng xa: Chương trình điện khí hóa nông thôn của Trung Quốc, với trọng tâm sử dụng năng lượng tái tạo tại các khu vực khó khăn, là bài học quý giá cho Việt Nam. Chính phủ cần hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để phát triển các dự án năng lượng sạch như mặt trời, gió và sinh khối ở các vùng nông thôn để tăng nguồn cung, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.
Thứ hai, việc lồng ghép quy hoạch phát triển năng lượng vào kế hoạch kinh tế - xã hội, như Trung Quốc đã làm, sẽ giúp Việt Nam khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên, đồng thời đảm bảo cân bằng giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và an ninh năng lượng.
Thứ ba, quy hoạch phát triển NLTT cần hoạch định việc phát triển hạ tầng đồng bộ và tích hợp lưới điện thông minh: Trung Quốc đặc biệt chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng truyền tải và đảm bảo các dự án năng lượng tái tạo được kết nối với lưới điện quốc gia. Việt Nam cần đầu tư vào hạ tầng truyền tải điện, lưới điện để hỗ trợ tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo hòa vào lưới điện quốc gia.
Thứ tư, cần có các giải pháp đồng bộ để thực hiện quy hoạch trong đó có nội dung đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển công nghệ và tiêu chuẩn hóa: Việc Trung Quốc xây dựng tiêu chuẩn công nghệ và thiết lập cơ quan quản lý riêng để giám sát các hoạt động năng lượng tái tạo là hướng đi quan trọng. Việt Nam nên đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển, đồng thời ban hành các tiêu chuẩn công nghệ để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của các dự án năng lượng tái tạo.
Thứ năm, cùng với việc lập quy hoạch, kế hoạch phát triên, việc xây dựng khung pháp lý toàn diện và đồng bộ cho phát triển NLTT là một trong những ưu tiên: Trung Quốc đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc với các luật rõ ràng, cụ thể nhằm quản lý toàn diện ngành điện lực và năng lượng tái tạo. Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống luật pháp, bao gồm các chính sách về quy hoạch, đầu tư, thuế và giá điện, đảm bảo tính minh bạch, ổn định và khuyến khích đầu tư dài hạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bình An (2023), Luật Năng lượng Tái tạo Trung Quốc thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng, truy cập tại https://nangluongquocte.petrotimes.vn/luat-nang-luong-tai-tao-trung-quoc-thuc-day-qua-trinh-chuyen-doi-nang-luong-700587.html.
[2] Nguyễn Thị Thanh Lam, Nguyễn Khánh Linh, Phạm Việt Hằng (2023), Phát triển năng lượng tái tạo: Thành công của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam. Học viện Ngoại giao, Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng Việt IV/2023.
[3] Viện Năng lượng – Bộ Công Thương, (2021), “Thuyết minh đề án Quy hoạch Phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2045”.
Nguồn Tạp chí Công thương : https://tapchicongthuong.vn/quy-hoach-phat-trien-nang-luong-tai-tao-nhin-tu-kinh-nghiem-cua-trung-quoc-va-goi-mo-cho-viet-nam-139667.htm