Nhiều quy trình bất cập, lỗi thời
Đợt mưa lũ sau bão số 14 vừa qua trở thành phép thử khắc nghiệt đối với hệ thống hồ chứa thủy điện ở miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Trong 2-3 ngày liên tiếp, từ Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi đến Khánh Hòa và Lâm Đồng, mưa lớn kéo dài với cường độ tăng mạnh ngay trước khi bão đổ bộ. Lũ trên nhiều sông vượt báo động hai, có nơi vượt báo động 3; mực nước trên các sông Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn và sông Ba đều đạt mức cao nhất nhiều năm trở lại đây.
Ở hạ du Đắk Lắk, đặc biệt là tại các xã Phú Hòa, Sơn Hòa và Đông Hòa, nước lên rất nhanh gây ngập sâu; trong khi tại Gia Lai và Quảng Ngãi, hàng loạt khu dân cư bị chia cắt do lũ tràn đường.
Trao đổi với PV Tiền Phong, TS Nguyễn Huy Hoạch - chuyên gia Hiệp hội Năng lượng Việt Nam - cho rằng bão số 14 tạo ra “lũ tổng hợp”: Lũ thượng nguồn dâng rất nhanh, lũ trung lưu lan rộng và lũ hạ du kéo dài, tạo sức ép chưa từng có đối với toàn bộ hệ thống hồ chứa khu vực.
Chính trong bối cảnh đó, những giới hạn của quy trình vận hành liên hồ chứa hiện nay bộc lộ rõ rệt và đặt ra yêu cầu phải nghiêm túc rà soát.
Theo ông Hoạch, đợt mưa lũ vừa qua cho thấy sự khác biệt rất rõ giữa các hồ có dung tích phòng lũ lớn và các hồ chỉ phục vụ phát điện. Chẳng hạn, thủy điện A Vương và Đăk Mi 4 trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn đã cắt giảm được từ 10-20% đỉnh lũ trong giai đoạn cao điểm, nhưng do đặc điểm lưu vực dốc, lũ về nhanh, hiệu quả này chỉ duy trì được từ 6-12h giờ đầu. Sau thời gian đó, hồ buộc phải xả để bảo đảm an toàn công trình. Điều này cho thấy không thể kỳ vọng khả năng cắt lũ của các hồ trong tình huống mưa cực đoan.
Quy trình vận hành liên hồ đang bị lỗi thời trước mưa lũ cực đoan.
Tại lưu vực sông Ba, nơi dung tích phòng lũ của các hồ gần như không đáng kể, hệ thống Ayun Hạ - Krông H’Năng - sông Ba Hạ và sông Hinh chỉ phục vụ phát điện là chủ yếu, nên không có khả năng điều tiết khi lượng nước về vượt mức lịch sử. Mưa lớn từ bão số 14 đã khiến hồ sông Ba Hạ buộc phải xả gần bằng lưu lượng nước về để giữ an toàn đập. Có thời điểm xả lên tới 16.100 m³/s, dẫn đến ngập sâu tại Phú Hòa, Đông Hòa và Sơn Hòa.
Ông Hoạch cho rằng, mặc dù nhà máy vận hành đúng quy trình, nhưng dung tích hữu ích của hồ chỉ 165,9 triệu m³ nên khả năng cắt lũ gần như bằng không ở giai đoạn cuối. Đây điển hình cho sự bất tương xứng giữa năng lực thiết kế của hồ và sức mạnh lũ cực đoan hiện nay.
“Chúng ta đang vận hành theo các quy trình được xây dựng dựa trên điều kiện thủy văn trong quá khứ, trong khi dòng chảy và cực trị khí hậu hiện nay đã mang bản chất hoàn toàn khác. Khi thực tế lũ vượt xa chuỗi dữ liệu thiết kế, nhiều quy định từng hợp lý lại trở nên lạc hậu, dẫn đến hiệu quả phòng lũ suy giảm hoặc không phát huy đúng kỳ vọng”, TS Nguyễn Huy Hoạch nói.
Cần cảnh báo, điều hành theo thời gian thực
Từ những bất cập trong vận hành hồ thủy điện vừa qua, theo ông Hoạch, cần chuyển sang một triết lý điều hành mới; quy trình vận hành liên hồ chứa cần linh hoạt hơn, hiện đại hơn và ứng dụng công nghệ cảnh báo sớm.
Nhiều khu vực ở Đắk Lắk chìm trong biển nước.
"Chúng ta cần cập nhật toàn bộ dữ liệu khí hậu - thủy văn, mô phỏng lại kịch bản mưa lũ cực trị và điều chỉnh các ngưỡng vận hành phù hợp với biến đổi khí hậu. Ở những hồ lớn có điều kiện, có thể xem xét giảm mực nước trước lũ từ 1-2m để tăng dung tích phòng lũ, với điều kiện vận hành có kiểm soát theo dự báo. Hệ thống cảnh báo lũ được áp dụng công nghệ trong dự báo dòng chảy, bản đồ ngập theo thời gian thực và cảnh báo chủ động qua các ứng dụng để bảo đảm người dân có thời gian chuẩn bị ứng phó", ông Hoạch nói.
Với các hồ thủy lợi, ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường - cũng thừa nhận các đợt mưa lũ cực đoan vừa qua đã bộc lộ hàng loạt vấn đề trong vận hành hồ chứa. Nhiều quy trình vận hành đơn hồ và liên hồ hiện được xây dựng dựa trên chuỗi số liệu lịch sử cũ, không phản ánh tình trạng 2-3 năm gần đây. Điều này khiến khi xảy ra mưa lớn, lượng nước đổ về thực tế có thể gấp 4-6 lần trung bình tháng, thậm chí vượt xa nhiều kỷ lục trong quá khứ.
Ngoài ra, không ít hồ chứa chủ động hạ mực nước đón lũ do dự báo chưa chắc chắn, khiến hiệu quả tích nước và cắt lũ bị giảm. Các hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết càng dễ rơi vào tình trạng bị động khi mưa lớn dồn dập.
Theo ông Phong, cần tăng cường phối hợp giữa thủy lợi và thủy điện, kết hợp ứng dụng công nghệ mới để đảm bảo an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.
Dương Hưng