Sáng 28/11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Quy hoạch (sửa đổi); Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Cần dùng dữ liệu từ các đỉnh lũ lịch sử để thiết kế lại quy hoạch
Tham gia góp ý, đại biểu Trịnh Xuân An (đoàn Đồng Nai) đề nghị Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các dự án, công trình trọng điểm, quy hoạch đô thị và quy hoạch vùng, miền phải gắn với quản trị rủi ro thiên tai; đầu tư thêm hệ thống quan trắc liên vùng, liên tỉnh để xử lý những hậu quả thời gian qua.
Song song đó, ông An cho rằng nên áp dụng các chuẩn mới, số liệu mới từ những đỉnh lũ lịch sử vừa qua để thiết kế hệ thống quy hoạch, nhất là liên quan đến các hồ, hệ thống thủy điện.
"Cần rà soát toàn bộ hệ thống thủy điện nhỏ, đánh giá quy trình xả lũ để tránh tình trạng "quy trình đúng nhưng hậu quả vẫn rất nặng nề" và làm rõ yếu tố này trong Quy hoạch tổng thể quốc gia", ông An nói.
Đại biểu Trịnh Xuân An (Ảnh: Media Quốc hội).
Đồng tình với quan điểm này, đại biểu Trần Hoàng Ngân (đoàn Tp.HCM) cho rằng trong điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030 cần bổ sung nội dung quan tâm đến tình hình biến đổi khí hậu, thời tiết ngày càng khắc nghiệt, gây ra những thiệt hại vô cùng nặng nề.
Cụ thể, với vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, trước sự tàn phá hết sức nặng nề của lũ lụt hiện nay, ông Ngân đề nghị hết sức thận trọng trong việc phát triển chuỗi đô thị ven biển.
Từ thực tiễn lũ lụt bất ngờ nhất là tại Khánh Hòa, đại biểu cho rằng công tác quy hoạch phải đảm bảo năng lực phòng chống thiên tai, nhất là vấn đề về quy hoạch về nhà ở.
Xác định rõ hệ thống hạ tầng lưỡng dụng với công trình trọng điểm
Liên quan điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia, đại biểu Trịnh Xuân An cho biết cả nước được phân thành 6 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng đều có ưu tiên phát triển riêng, nhưng chỉ có vùng Bắc Trung Bộ gắn phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng - an ninh.
Ông đề nghị tất cả các vùng phát triển kinh tế xã hội đều phải có nội dung về bảo đảm và gắn phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng an ninh nhất là các vùng liên quan tới biên giới.
Cho rằng cần điều chỉnh lại nội dung về đảm bảo quốc phòng an ninh chặt chẽ, đại biểu cho rằng cần tích hợp quy hoạch về thế trận phòng thủ vào quy hoạch quốc gia, đặc biệt trong điều kiện tổ chức địa giới hành chính mới và sáp nhập các tỉnh, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.
Đồng thời, đại biểu Trịnh Xuân An đề nghị làm rõ hơn cơ chế lưỡng dụng và bổ sung nội dung quy hoạch quốc gia phải gắn với thế trận phòng thủ biển đảo.
Theo ông, cần xác định rõ hệ thống hạ tầng lưỡng dụng đối với các tuyến công trình quan trọng quốc gia, nhất là về đường sắt, đường sắt cao tốc, cảng biển, sân bay và công trình lớn về đường cao tốc.
Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (Ảnh: Media Quốc hội).
Trong khi đó, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (đoàn Ninh Bình) đồng tình với chủ trương ưu tiên phát triển đường sắt trên các hành lang kinh tế lớn, gắn với cảng biển, cửa ngõ và cửa khẩu quốc tế, các trung tâm kinh tế. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính, đã hình thành nhiều tỉnh có quy mô rất lớn, trong đó khoảng cách từ các tỉnh lỵ cũ đến tỉnh lỵ mới phổ biến lên tới vài chục km, thậm chí hàng trăm km.
Theo bà Thanh, nếu chỉ phát triển các trục đường sắt xương sống quốc gia mà thiếu hệ thống kết nối nội tỉnh, liên tỉnh, thì người dân và doanh nghiệp ở các địa phương mới sau sáp nhập vẫn buộc phải phụ thuộc chủ yếu vào đường bộ.
"Điều này gây áp lực lớn lên hệ thống cao tốc, quốc lộ và rất khó đạt được mục tiêu giảm chi phí logistics, cũng như mục tiêu dịch chuyển cơ cấu vận tải từ đường bộ sang đường sắt", bà Thanh nói.
Từ thực tiễn đó, nữ đại biểu đề nghị trong phần định hướng về đường sắt, bên cạnh nội dung đầu tư các tuyến đường sắt đầu mối, cần bổ sung thêm cụm từ: "đường sắt kết nối nội tỉnh, liên tỉnh ở một số địa phương".
Việc bổ sung này tạo hành lang pháp lý để các quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh, trên cơ sở nhu cầu thực tế, xây dựng các tuyến đường sắt vùng, đường sắt nội tỉnh phù hợp.
Những tuyến đường sắt này sẽ kết nối tỉnh lỵ mới với tỉnh lỵ cũ, kết nối các khu công nghiệp, trung tâm logistics, các vùng du lịch di sản với mạng đường sắt quốc gia và đường sắt tốc độ cao trong tương lai. Qua đó, giúp chia sẻ lưu lượng với đường bộ, đồng thời hỗ trợ hình thành các cực tăng trưởng cấp tỉnh, tiểu vùng, đúng với tinh thần tổ chức lại không gian phát triển sau sáp nhập đơn vị hành chính.
Đồng thời, cần bổ sung nội dung này để định hướng phát triển đường sắt bao quát cả ba tầng: trục quốc gia, kết nối liên vùng và kết nối nội tỉnh. Qua đó hiện thực hóa mục tiêu tăng thị phần vận tải đường sắt, giảm chi phí logistics và khai thác hiệu quả không gian phát triển mới sau sắp xếp đơn vị hành chính.
Tập trung vùngđộng lực tăng trưởng, không dàn trải nguồn lực
Phát biểu làm rõ các ý kiến của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, theo quy định của Luật Quy hoạch, Quy hoạch tổng thể quốc gia là quy hoạch mang tính chiến lược, xác định việc tổ chức không gian phát triển của đất nước, có phạm vi ở cấp quốc gia và quốc tế, có tính liên vùng.
Quy hoạch đặc biệt chú trọng phân vùng, liên kết vùng, bao gồm việc xác định các vùng kinh tế - xã hội, các hành lang kinh tế, vùng động lực, cực tăng trưởng và các vùng hạn chế phát triển.
Quy hoạch tổng thể quốc gia xác định khung kết cấu hạ tầng của đất nước, phát triển hệ thống đô thị và nông thôn, bao gồm các cảng, cửa ngõ quốc tế, hạ tầng kỹ thuật - xã hội cấp quốc gia, quốc tế mang tính liên vùng, cũng như các định hướng ưu tiên đầu tư trong thời kỳ quy hoạch.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng giải trình (Ảnh: Media Quốc hội).
Ông Thắng cho biết, những nội dung chi tiết về định hướng phát triển từng ngành, từng vùng, liên kết nội vùng, bổ sung các dự án... sẽ được thể hiện ở các quy hoạch cấp thấp hơn.
Về định hướng cho các khu vực động lực và khu vực khó khăn, Bộ trưởng cho biết hiện nay, trong 6 vùng kinh tế - xã hội, Quy hoạch tổng thể quốc gia đã xác định vai trò của vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ là các vùng có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất, là các động lực tăng trưởng lớn nhất của cả nước.
Trên cơ sở đó, quy hoạch định hướng tập trung nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư, phát triển các ngành, lĩnh vực trình độ cao, tạo động lực phát triển tại các vùng này.
Bên cạnh đó, quy hoạch cũng quan tâm đến các vùng khó khăn, đề ra nhiều giải pháp như xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù; chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; từng bước phát triển khu vực khó khăn thông qua xây dựng hạ tầng kết nối với các trung tâm, hành lang kinh tế.
Ông Thắng cho biết, sẽ tiếp thu tối đa các ý kiến về tiềm năng, lợi thế của 6 vùng động lực để cập nhật vào Quy hoạch tổng thể quốc gia, đồng thời bảo đảm tính khả thi, trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải; gắn kết chặt chẽ mục tiêu phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đặc biệt tại khu vực biên giới.
Nguyễn Thu Huyền