"Sinh" hay "sinh" ?
Cụ thể, đoạn được trích dẫn là:
“Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,
đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
Làm chi cho bận lòng này lắm thân!” (trích đề thi)
Từ “Sinh” ở giữa câu "Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày" được viết hoa âm “s” như trên đã khiến nhiều học sinh hiểu là tên (danh từ) riêng theo quy tắc chính tả tiếng Việt hiện đại. Trùng hợp là, trong Truyện Kiều cũng có những nhân vật tên có từ Sinh như: Thúc Sinh, Mã Giám Sinh. Trong khi đó, đoạn trích trên đúng lại là giữa Thúy Kiều với Kim Trọng. Và câu “Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày” này chỉ Kim Trọng.
“Thầy cô khi giảng ít ai giải nghĩa rõ từ “sinh” trong Truyện Kiều. Cũng ít có bạn nào thuộc hết 3000 câu Kiều. Đề thi như vậy gây nhầm lẫn cho học sinh. Cách giải thích từ “sinh” là tên riêng chỉ Kim Trọng nên viết “s” hoa cũng chưa thuyết phục”, một học sinh bày tỏ.
Trong khi đó, khi được hỏi về câu trích này, cô Kim Thị Bích Lụa (giáo viên văn trường THPT Hai Bà Trưng, Hà Nội) cho rằng: Từ "sinh" trong câu trích trên là cách xưng hô của Kim Trọng, không phải danh từ riêng nên không viết hoa âm "s".
Điều khó khăn là, khi tra cứu đoạn trích trên trong các bản Truyện Kiều (đã được số hóa) cũng cho ra kết quả không đồng nhất. Truyện Kiều trên Wikisource (Văn thư lưu trữ mở), chữ “s” ghi hoa (Sinh); Truyện Kiều chú giải (1953) (Lê Văn Hòe, Quốc học thư xã, trong Bộ Sưu tập sách Đông Dương của Thư viện Quốc gia Việt Nam) chữ “s” cũng in hoa (Vội vàng, Sinh đã tay nâng ngang mày).
Trong khi đó, Truyện Kiều (Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo dị) trên trang https://www.nomfoundation.org/, phiên âm bản 1870 thì chữ “s” trong câu trên lại chép thường (sinh); cũng trên chính trang này, phiên âm bản 1871 chữ “s” lại chép hoa (Sinh), đến phiên âm 1872 lại chép “s” thường.
Hai bản Kiều ghi là của Trương Vĩnh Ký chép từ "sinh/sang" khác nhau, một in thường (1875), một in hoa (1911).
Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký (bản scan trên archive.org, ghi 1875), dùng từ “sanh” thay cho “sinh” và câu thơ trên được chép là: “Hiên sau treo sẵn cầm trăng,/ vội-vàng sanh đã tay nưng ngang mày”. Nhưng cũng bản Trương Vĩnh Ký 1911 thì lại chữ “s” hoa và nghiêng (Hiên sau treo sẵn cầm trăng./vội-vàng Sanh đã tay nưng ngang mày). Kim Vân Kiều tân truyện (1884 - 1885) cũng dùng từ “sanh”, in hoa, nghiêng. (Hiên sau treo sẵn cầm trăng; Vội vàng Sanh đã tay nưng ngang mày)
Nói tóm lại, dẫn ra một số ví dụ trên chỉ để thấy rằng, chuyện chữ “s” (sinh) in thường hay in hoa trong câu “Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày” thật là rắc rối!
Truyện Kiều bản nôm (bên trái), phiên âm (bên phải) trên trang https://www.nomfoundation.org/
“Sinh” có nghĩa như thế nào?
Để hiểu rõ nghĩa của từ này, cần quay lại với Truyện Kiều, khi xem xét toàn đoạn thì thấy rằng, không phải đến câu này, tác giả mới dùng từ “sinh” để dẫn lời/chỉ Kim Trọng (ở đây, không bàn đến đoạn sau, khi dùng “Sinh” để chỉ Thúc Sinh).
Như là các câu: Sinh đà có ý đợi chờ (303), Sinh rằng: “Lân lý ra vào… (311), Sinh rằng: Rày gió mai mưa,.. (337), Sinh rằng: “Phác họa vừa rồi… (401), Sinh rằng: Giải cấu là duyên,… (419), Sinh vừa tựa án thiu thiu (435), Sinh rằng: Gió mát trăng trong,... (455). Có điều, phần đa các từ "sinh" này nằm ở đầu câu nên việc viết hoa hay thường không "phức tạp" như câu trích trên.
Vậy từ "sinh" trong trích đoạn này có nghĩa như thế nào? Truyện Kiều chú giải (Lê Văn Hòe, 1953, sđd) (giải thích cho câu “Sinh đà có ý đợi chờ") chú giải: Sinh đây là Kim Trọng. Sinh 生 nghĩa là kẻ sĩ 士, phàm người theo học-nghiệp đều gọi là Sinh như Nho-sinh, Thư-sinh, Y-sinh, Học sinh. Kim Trọng đã có ý đứng đợi sẵn ở bên này tường.
Từ điển Truyện Kiều (Đào Duy Anh) giải thích: Sinh: Người học trò; thường dùng làm đại từ để chỉ người đàn ông, cũng như từ nàng để chỉ đàn bà. Vd. Sinh đà có ý đợi chờ, 303; 311, 337, 401, 419, 435, 455, 468, 528, 534, 1293, 1313, 1329, 1361, 1449, 1496, 1568, 1823, 1831, 1839, 1845, 1863, 1869, 1891, 1905, 1941, 1967, 1985, 2809, 2820, 2831 -// Sinh viên (1): Người học trò. Vd. Thúc sinh viên, 2912, tức người học trò họ Thúc, gọi tắt là Thúc sinh – Giám sinh: X.Giám
Trao đổi với PV, TS.Phạm Văn Ánh (Viện Văn học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) cũng cho biết: Trong các truyện xưa thì “sinh” hay dùng thay cho cách gọi nhân vật nam, nhất là học trò, nho sinh.
Như vậy có thể hiểu, “sinh” trong câu “Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày” vốn xuất phát là từ chỉ người học trò, người có học, kẻ sĩ (từ nghĩa này có các từ như: Nho sinh, học sinh, môn sinh…). Trong ngôn ngữ Nho học và văn chương trung đại, người đọc sách hay người theo nghiệp đèn sách, bút nghiên khiêm xưng mình là “sinh”. Sinh ở đây là đại từ không phải danh từ. Tất nhiên đó không phải là tên riêng của Kim Trọng.
Chính vì vậy, theo ý riêng của người viết, để tránh nhầm lẫn, trong trình bày câu này nên dùng từ “sinh” với chữ “s” thường nhưng đồng thời có thể in nghiêng để dễ nhận biết đó là đại từ (thay thế cho Kim Trọng).
Ảnh chụp màn hình 1 trang Kiều (1911).
Mong muốn chuẩn hóa chính tả Truyện Kiều quốc ngữ
Chia sẻ với PLVN, nhà sưu tầm Nguyễn Khắc Bảo (tác giả cuốn Truyện Kiều: văn bản hướng tới phục nguyên, khảo đính và chú giải) cho biết: Trong các bản in nôm Truyện Kiều hiện sưu tầm được không có đánh dấu cú, đậu (chấm, phẩy), đương nhiên cũng không hề có chữ hoa, chữ thường.
“Việc trình bày như thế nào chỉ đặt ra với bản Kiều quốc ngữ. Chỗ nào hai chấm, chỗ nào mở ngoặc kép, chỗ nào viết hoa, chỗ nào chấm phẩy… là do quá trình biên tập, trình bày; do ý hiểu của mỗi người’, ông Bảo nói.
Được biết, việc tìm phương án tối ưu cho trình bày văn bản quốc ngữ Truyện Kiều cũng được nhiều nhà nghiên cứu, những người quan tâm đến Truyện Kiều, nhất là để bảo đảm học liệu chính xác cho học sinh, sinh viên đặt ra.
Cách đây không lâu (tháng 7/2025), Hội Kiều học Việt Nam phối hợp cùng Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền, Viện Nghiên cứu danh nhân đã tổ chức Tọa đàm khoa học “Tìm kiếm phương án tối ưu cho việc trình bày văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều”.
Tại tọa đàm, theo các nhà nghiên cứu, từ bản phiên âm quốc ngữ đầu tiên do Trương Vĩnh Ký thực hiện và xuất bản năm 1875, đến nay đã có vô số dị bản Truyện Kiều bằng chữ Quốc ngữ được in ấn; mỗi bản lại có cách trình bày, phân đoạn, sử dụng dấu câu và ghi chú khác nhau. Sự thiếu nhất quán này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải bàn thảo, thống nhất phương pháp tối ưu - vừa tôn trọng nguyên tác, vừa phù hợp với thói quen đọc trong bối cảnh số hóa hiện nay.
Về góc độ giáo dục, thi cử, thiết nghĩ, trong lúc các bản Truyện Kiều quốc ngữ còn "9 người 10 ý" về việc trình bày thì việc trích dẫn vào đề thi cần được cân nhắc, chọn lọc kỹ lưỡng để tránh những nhầm lẫn hoặc gây khó khăn cho học sinh khi làm bài.
An Bình