Kết quả điều tra 5 năm một lần, công bố vào năm 2024 cho biết tổng diện tích rau đạt chứng nhận VietGAP hơn 8.000 trên tổng số 1,15 triệu ha, tức chỉ khoảng 0,5% - 0,6%. Thông tin này được ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Môi trường (Bộ NN-MT), chia sẻ tại tọa đàm "Nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản trong nước", do Báo Tiền Phong tổ chức ngày 23-9, thực sự gây hoang mang dư luận.
Nhiều trở ngại
Theo ông Nguyễn Quý Dương, từ năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ NN-MT) đã ban hành quy định và khuyến khích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sau đó Chính phủ có chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP vẫn còn rất ít.
Theo kết quả điều tra nói trên, tổng diện tích được chứng nhận VietGAP mới đạt khoảng 150.000 ha cho 6 nhóm cây trồng. Ngoài diện tích rau chỉ đạt hơn 8.000 ha thì cây ăn quả đạt khoảng 76.000 ha, chè khoảng 5.200 ha. Nếu tính cả các chứng nhận khác, bao gồm GlobalGAP, tổng diện tích đạt khoảng 440.000 ha. Trong đó, rau cũng chỉ có hơn 8.400 ha, còn cây ăn quả đạt khoảng 78.000 ha. "Đây là con số rất khiêm tốn so với quy mô sản xuất và nhu cầu tiêu thụ hiện nay" - ông Dương nói.
Ông Nguyễn Quý Dương lý giải nguyên nhân chính dẫn đến rau và các nhóm cây trồng theo tiêu chuẩn VietGAP đạt thấp là do chi phí sản xuất theo tiêu chuẩn này cao, nông dân ngại tham gia.
Thực tiễn cho thấy với những đơn vị sản xuất nhỏ, nguồn lực hạn chế thì việc sản xuất rau sạch gắn với tiêu thụ là bài toán khó. Ông Nguyễn Tuấn Hồng, đại diện HTX Sản xuất và Tiêu thụ rau an toàn Bắc Hồng, dẫn chứng HTX này có 5 ha rau VietGAP nhưng là đất thuê, mỗi sào từ 1,5-2 triệu đồng/năm, gần như không có lãi.
Trong khi đó, ông Trần Huy Đường, Chủ tịch HĐTV Công ty LangBiang Farm (Lâm Đồng), nêu thực tế các sản phẩm của công ty đạt tiêu chuẩn GlobalGAP, vào được các hệ thống siêu thị trong nước và xuất khẩu sang một số thị trường như Hàn Quốc, Đài Loan - Trung Quốc, Singapore… Thế nhưng, nỗi lo lớn nhất lại chính là… thị trường nội địa, với tình trạng nhập nhèm giữa sản phẩm sạch với sản phẩm trôi nổi, kém chất lượng. Vì thế, cơ quan chức năng cần tăng cường giám sát truy xuất nguồn gốc sản xuất, kiểm tra chất lượng từ trang trại đến bàn ăn; kiểm soát từ khâu trồng trọt tới khâu đóng gói, tránh tình trạng trà trộn sản phẩm bẩn.
Rau VietGAP, sản phẩm của HTX Tuấn Ngọc (TP HCM) Ảnh: NGỌC ÁNH
Hoàn chỉnh pháp lý
"Một nông dân mỗi năm có thể cung cấp hàng chục, thậm chí hàng trăm tấn rau nhưng hiện vẫn chưa có biện pháp quản lý an toàn tương xứng. Đây chính là lỗ hổng quản lý cần được khắc phục" - ông Nguyễn Văn Mười, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, kiến nghị.
Theo ông Mười, phải siết chặt kiểm soát hàng hóa lưu thông trên thị trường. Các sản phẩm bảo vệ thực vật phải được quản lý theo đơn, không thể mua tùy tiện. Tùy từng loại thuốc, thời gian cách ly có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng. Nếu người sản xuất không có ý thức, người tiêu dùng sẽ chịu thiệt. Các cơ sở sản xuất cũng cần đáp ứng tiêu chuẩn trước khi đưa sản phẩm ra thị trường.
Nhấn mạnh đến quyền lợi và việc bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, bà Trần Thị Dung, Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Ban kiểm tra - Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, cũng chỉ rõ những bất cập về quản lý. Theo bà Dung, hiện nay, quản lý mỗi loại thực phẩm do 3 bộ đảm trách, gồm Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ NN-MT. Vì thế, việc quản lý nên tập trung vào một đầu mối; đồng thời hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn minh bạch.
Liên quan đến khâu quản lý, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật dẫn chứng ở Nhật Bản, tuy việc sản xuất nhỏ lẻ, manh mún nhưng việc kiểm soát sản xuất an toàn thực phẩm rất tốt. Nhờ cách làm này, rau xà lách của "Ngôi làng thần kỳ" Kawakami (tỉnh Nagano) bán khắp nơi trên thế giới, biến ngôi làng nghèo nhất nước thành một trong những làng giàu có nhất Nhật Bản. Điều này cho thấy dù diện tích sản xuất của Việt Nam nhỏ lẻ, manh mún cũng hoàn toàn có thể sản xuất sạch, an toàn.
Theo ông Nguyễn Quý Dương, mấu chốt là phải truy xuất nguồn gốc từ khâu sản xuất, không thể tùy tiện mang ra chỗ nào cũng bán được. Còn nếu nhập nhèm như hiện nay thì 10 hay 20 năm nữa, chúng ta vẫn phải "sống chung" với thực phẩm không an toàn, nhập nhằng rau sạch - rau bẩn.
Áp dụng "hộ chiếu số" cho từng sản phẩm
Theo ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước - Bộ Công Thương, hàng hóa tiêu thụ ở các trung tâm thương mại, siêu thị chủ yếu do cơ sở kinh doanh thực phẩm là doanh nghiệp, tập đoàn lớn cung ứng, có giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Trong khi đó, các hộ kinh doanh tại chợ chủ yếu nhỏ lẻ chỉ cần cam kết với cơ quan quản lý nên công tác quản lý an toàn thực phẩm còn hạn chế. Để khắc phục, năm 2016, Bộ Công Thương đã ban hành TCVN 11858:2017 về chợ kinh doanh thực phẩm, khuyến khích các địa phương áp dụng. Tuy nhiên, đây chỉ là tiêu chuẩn khuyến nghị, chưa bắt buộc.
Vì vậy, theo ông Tuấn, cần hoàn thiện pháp luật, rà soát mô hình quản lý, nâng cấp cơ sở vật chất các chợ, kiểm soát nguồn hàng và tăng cường tập huấn cho hộ kinh doanh nhỏ lẻ. Trên cơ sở Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa dự kiến có hiệu lực từ ngày 1-1-2026, Bộ Công Thương đang xây dựng thông tư, dự kiến ban hành tháng 5-2026, nhằm siết chặt truy xuất nguồn gốc sản phẩm, trong đó có áp dụng "hộ chiếu số" cho từng sản phẩm.
LÊ THÚY