Lịch sử guồng xe nước
Một bờ xe nước gồm 4 thành phần chính: Bờ cừ, giàn bờ xe, các guồng bánh xe quay nước, máng giàn và mương dẫn. Trục guồng bánh xe quay nước do người dân ở thôn Phước Lộc, xã Sơn Tịnh phát hiện mới đây được chế tác từ nguyên khúc gỗ cây xoay, một loại gỗ rất chắc, không bị mài mòn, chiều dài 2,5m, đường kính 0,4m. Trục guồng bánh xe nước này hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, hiện vật này đã đem lại nhận thức cụ thể về guồng bánh xe nước ở Quảng Ngãi mà nay chỉ còn là ký ức.
Lịch sử nghiên cứu về guồng xe nước (les norias) ở Quảng Ngãi bắt đầu vào những thập niên đầu thế kỷ XX, do một số nhà khoa học người Pháp thực hiện. Trong đó, H.Parmentier, một kiến trúc sư người Pháp từng có nhiều thời gian nghiên cứu văn hóa Champa ở Quảng Ngãi, đã chú ý đến các guồng quay nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ.
Trong tác phẩm “Ghi chú về những guồng quay nước ở tỉnh Quảng Ngãi”, H.Parmentier cho rằng, những người nông dân ở Quảng Ngãi đã tiếp thu kỹ thuật làm xe nước của người Chăm, còn chính những người nông dân Chăm thì học được những kỹ thuật lấy nước bằng guồng quay nước của văn hóa Ả Rập. Viên công sứ Pháp ở Quảng Ngãi là A.Laborbe trong tác phẩm “La province de Quang Ngai”, đăng trong B.A.V.H số 2 (1925), lại cho rằng “Lão Thêm” ở làng Bồ Đề, thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức cũ (nay là xã Long Phụng) là người đầu tiên làm ra bờ xe nước.
Theo Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác (1935) thì đến những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 96 bờ xe nước. Sơn Tịnh có 29 bờ xe, trong đó 6 bờ xe 10 guồng, 19 bờ xe 9 guồng, 4 bờ xe 8 guồng. Tư Nghĩa có 24 bờ xe, trong đó 4 bờ xe 10 guồng, 8 bờ xe 9 guồng, 12 bờ xe 4 guồng. Mộ Đức có 25 bờ xe, trong đó 5 bờ xe 5 guồng, 18 bờ xe 4 guồng, 2 bờ xe 3 guồng. Nghĩa Hành có 18 bờ xe, trong đó 7 bờ xe 5 guồng, 11 bờ xe 4 guồng.
P.Guillemenet đã thực hiện một chuyên luận về guồng bánh xe quay nước ở tỉnh Quảng Ngãi, đó là tác phẩm “Une Industrie Annamite: Les Norias du Quảng Ngãi” (Công nghiệp An Nam: Những guồng quay nước ở Quảng Ngãi), đăng trong B.A.V.H số 2 năm 1926. Theo P.Guillemenet, các guồng xe nước là sản phẩm du nhập từ ngoài vào.
P.Guillemenet nhận xét: “Ở Trung - Trung Kỳ, guồng xe nước hiện diện xưa nhất là Bình Định trên vùng sông Lại Giang, An Lão; khoảng năm 1740 các guồng quay nước du nhập vào Quảng Ngãi và lên mãi tận làng Bồ Đề. Năm 1835, các guồng nước được lắp đặt trên sông Trà Khúc, vùng Phước Lộc, và chỉ từ năm 1900 trở đi chúng mới lan đến Quảng Nam”.
P.Guillemenet cho rằng, rất đáng bàn cãi về nguồn gốc bờ xe nước, bởi không đủ căn bản để thuyết phục rằng Trung Hoa là nơi phát minh ra guồng quay nước. Ông cũng bác bỏ giả thuyết nguồn gốc guồng quay nước là do các giáo sĩ truyền giáo Bồ Đào Nha du nhập vào khu vực Ấn - Trung. Vùng phân bổ các guồng quay nước ở Đông Dương được P.Guillemenet thống kê gồm có ở vùng Battambang (Campuchia), ở Lào trong các vùng cư trú của người Tày, Thái; ở Việt Nam, guồng xe nước có ở các tỉnh miền núi phía bắc, các tỉnh từ Thanh Hóa kéo dài đến Phú Yên.
Trong đó, nhiều nhất là tỉnh Quảng Ngãi có trên 113 guồng, Bình Định trên 100 guồng; Quảng Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh dưới 30 guồng. Qua thống kê của P.Guillemenet cho thấy, bờ xe nước ở Quảng Ngãi chiếm số lượng nhiều nhất. Tuy nhiên, con số 113 bờ xe nước ở Quảng Ngãi do P.Guillemenet thống kê năm 1926 tập trung trên hai con sông chính là Trà Khúc và sông Vệ, còn các sông khác như Trà Bồng, Trà Câu chưa được thống kê đến, do đó số lượng bờ xe nước ở Quảng Ngãi còn nhiều hơn nữa.
Dấu xưa còn mãi
Văn bản chữ Hán còn lưu giữ được nói về bờ xe nước là một tờ đơn xin miễn công ích cho những người thợ xe ở Bồ Đề (Mộ Đức) có lời phê với ba chữ “Thính chấp bằng”. Theo A.Laborbe thì đây là châu phê của vua Tây Sơn Thái Đức (Nguyễn Nhạc). Tờ đơn ghi niên hiệu Thái Đức thập nhị niên, tức năm 1790, nêu lên việc các nhóm thợ xe ở xã khác đã được miễn sưu dịch.
Như vậy, vào thời điểm giữa thế kỷ XVIII, hệ thống các bờ xe nước ở Quảng Ngãi đã khá phát triển, đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Chúng ta biết rằng, để guồng xe nước có thể vận hành từ tháng Ba đến tháng Tám âm lịch (mùa nắng), các nhóm thợ phải làm việc liên tục trong cả năm, và như thế họ không thể có thời gian để đi làm công ích nên phải có đơn xin miễn công ích hoặc nộp tiền.
Bờ xe nước được phục dựng, trưng bày tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh. Ảnh: LÊ MINH THỂ
Nguyễn Thông, vị quan Bố chánh Quảng Ngãi đã dâng lên vua Tự Đức một tờ sớ “Trần thủy lợi tài thụ nghi sớ”, đề Tự Đức năm thứ 23 (1870) trình bày công việc thủy lợi và trồng cây ở Quảng Ngãi. Trong tờ sớ này có việc đề nghị miễn thuế guồng nước đồng niên (khoảng hơn 80 quan/guồng) cho các guồng xe ở Long Phụng, Bồ Đề, Năng An (sông Vệ); Đông Dương (Trà Khúc).
Bố Chánh Nguyễn Thông là vị quan rất chăm lo nghề nông. Ông đã nêu lên những lý lẽ khá chính đáng và giàu tính thuyết phục cho đề nghị của mình: “Sống nghề nông không gì cần bằng nước, việc đắp đập khơi ngòi là làm lợi cho dân, dù cho tiêu tốn công quỹ triều đình cũng không tiếc, huống chi kẻ tiểu dân phải tự lo lấy mà bắt nộp thuế sao? Vậy tiền thuế guồng nước các nơi ấy nên chăng tạm miễn để lấy chỗ khuyến khích nông dân? Xin chờ chỉ dụ”.
Tính tổ chức trong công việc xây dựng, vận hành, quản lý điều hành phân chia nguồn lợi từ các bờ xe nước ở Quảng Ngãi có lẽ hoàn thiện hơn so với các nơi khác. Tổ chức mỗi bờ xe nước có Trưởng cử, có thể hiểu như hội đồng quản trị của một bờ xe. Mỗi bờ xe có một nhóm thợ, gọi là thợ xe, gồm 7 người. Hầu hết các guồng xe nước ở Quảng Ngãi đều do cá nhân chủ ruộng đứng ra hoặc hùn hạp vài người cùng bỏ tiền xây dựng. Hoa lợi từ lúa được chia tại chỗ khi thu hoạch giữa chủ ruộng và thợ xe.
So với các nơi, bờ xe nước ở Quảng Ngãi có số lượng guồng nhiều nhất. Nguồn gốc guồng xe nước đến nay vẫn còn phải nghiên cứu. Điểm đáng chú ý là, các guồng xe quay nước ở Quảng Ngãi phát triển hoàn hảo về kỹ thuật làm guồng bánh xe, có nhiều guồng bánh xe đấu nối lắp ráp, vận hành đồng bộ, tính tổ chức xây dựng bờ xe nước, các tín ngưỡng liên quan đến guồng xe quay nước...
Tất cả điều đó khiến chúng ta có suy nghĩ, vùng đất Quảng Ngãi là vùng lõi trung tâm kỹ thuật xây dựng guồng xe nước từ rất sớm. Đây là sáng tạo vượt bậc trong thủy lợi nông nghiệp trồng lúa, mãi là niềm tự hào của người dân Quảng Ngãi.
TS ĐOÀN NGỌC KHÔI