Chị D, 40 tuổi, ngụ Hà Nội, vốn là một người dễ ngủ, ngủ sâu 6-7 tiếng mỗi đêm.
Ngủ 2-3 tiếng mỗi đêm
Cách đây 1 năm, con chị D bước vào kỳ thi chuyển cấp quan trọng, đồng thời chị được thăng chức lên vị trí quản lý với khối lượng công việc lớn, khiến chị thường xuyên phải thức khuya.
Chị D khó ngủ dần, ngủ 4-5 tiếng mỗi đêm, giấc ngủ chập chờn. Dù đi ngủ sớm từ 10 giờ, chị vẫn trằn trọc. Ban ngày, chị cố chợp mắt 15-30 phút cũng không được.
Chị D tự mua thuốc bổ não về uống, tình trạng không cải thiện.
Khoảng 80% người được chẩn đoán rối loạn giấc ngủ đều gặp vấn đề có liên quan đến căng thẳng trong cuộc sống. Ảnh minh họa
3 tháng gần đây, chị D chỉ ngủ 2-3 tiếng mỗi đêm, mất 2-3 tiếng mới vào giấc, thức giấc nhiều lần và không ngủ lại được. Cơ thể chị D mệt mỏi, tinh thần bất ổn, dễ nổi nóng vô cớ, khó tập trung làm việc.
Chị D đi khám và được chẩn đoán rối loạn giấc ngủ, chỉ định dùng thuốc. Sau 1 tuần uống thuốc, chị ngủ nhiều hơn nhưng ban ngày lại buồn ngủ lịm, không làm việc được.
Chị tự ý dừng thuốc và mất ngủ trở lại, thậm chí nặng hơn: Nhiều đêm trắng, sợ hãi khi lên giường, nhạy cảm với tiếng động nhỏ, ăn không ngon, người kiệt sức.
Tại Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), chị D được chẩn đoán mất ngủ không thực tổn, chủ yếu do căng thẳng tâm lý kéo dài và thói quen ngủ không tốt.
Kết hợp dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ và liệu pháp tâm lý CBT (nhận thức hành vi) về giấc ngủ, sau 2 tuần, chị D ngủ lại được 5-6 tiếng mỗi đêm, giấc ngủ sâu hơn, ăn ngon, tinh thần vui vẻ.
7 nhóm nguyên nhân khiến bạn thao thức suốt đêm
Theo Viện Sức khỏe Tâm thần, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có tới 27,3% dân số nói chung than phiền về rối loạn giấc ngủ, trong đó mất ngủ là phổ biến nhất.
Tại Việt Nam, khoảng 80% người được chẩn đoán rối loạn giấc ngủ đều gặp vấn đề có liên quan đến căng thẳng trong cuộc sống.
"Mất ngủ không đơn thuần là thiếu ngủ. Đó là tình trạng không hài lòng về số lượng hoặc chất lượng giấc ngủ, kéo dài ít nhất 3 đêm mỗi tuần trong ít nhất 3 tháng, dù có đủ cơ hội để ngủ, gây ra đau khổ hoặc suy giảm đáng kể trong các hoạt động xã hội, nghề nghiệp, giáo dục, học tập, hành vi hoặc các lĩnh vực quan trọng khác", bác sĩ Đoàn Thị Huệ, Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai, nói.
Cũng theo bác sĩ Huệ, giấc ngủ đầy đủ giúp bộ não hoạt động bình thường, trong khi thiếu ngủ hoặc giấc ngủ kém chất lượng có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như mệt mỏi, giảm năng lượng, khó chịu và các vấn đề về tập trung, khả năng đưa ra quyết định.
Mất ngủ thường là hệ quả của sự kết hợp phức tạp giữa nhiều yếu tố, không đơn thuần do một nguyên nhân duy nhất. Các chuyên gia đã chỉ ra 7 nhóm nguyên nhân chính gây mất ngủ.
Nguyên nhân hàng đầu là căng thẳng tâm lý. Công việc căng thẳng, áp lực học tập, gánh nặng tài chính, mâu thuẫn gia đình, hay những sang chấn tâm lý (như mất người thân, ly hôn, tai nạn...) đều có thể kích hoạt hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng mất ngủ.
Khi căng thẳng, cơ thể sản xuất hormone cortisol và adrenaline, gây hưng phấn và khó đi vào giấc ngủ. "Các vấn đề về giấc ngủ thường tồn tại cùng các triệu chứng trầm cảm, lo âu và có thể làm trầm trọng thêm các tình trạng này", bác sĩ Huệ nhấn mạnh.
Nguyên nhân thứ hai là các thói quen ngủ không lành mạnh (vệ sinh giấc ngủ kém). Đây là nguyên nhân phổ biến gây mất ngủ mà nhiều người thường bỏ qua.
Các thói quen ngủ không lành mạnh có thể kể đến như: Lịch ngủ thất thường (ngủ và thức dậy không đúng giờ, đặc biệt là vào cuối tuần); sử dụng chất kích thích (cà phê, trà đặc, nước ngọt có ga, thuốc lá) gây kích thích thần kinh; tiếp xúc ánh sáng xanh quá khuya (ánh sáng xanh từ điện thoại, máy tính bảng, ti vi); môi trường ngủ không tốt (phòng ngủ ồn ào, quá sáng, nhiệt độ không phù hợp); ăn no hoặc vận động mạnh sát giờ ngủ; dành quá nhiều thời gian cố ngủ trên giường (nằm trằn trọc trên giường khi không buồn ngủ).
Bác sĩ Đoàn Thị Huệ, Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai. Ảnh: TH
Tiếp theo là do các bệnh lý tâm thần. Mất ngủ là một triệu chứng phổ biến và thường đi kèm với nhiều bệnh lý tâm thần như trầm cảm, rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD), rối loạn lưỡng cực...
Nghiên cứu cho thấy khoảng 90% người mắc trầm cảm nặng bị mất ngủ. Ngược lại, tình trạng mất ngủ kéo dài cũng được chứng minh là yếu tố làm tăng nguy cơ khởi phát hoặc làm trầm trọng thêm các bệnh lý tâm thần.
Thứ tư là do các bệnh lý cơ thể. Nhiều bệnh lý thể chất có thể gây ra sự khó chịu hoặc các triệu chứng làm gián đoạn giấc ngủ:
Các bệnh như đau xương khớp, đau đầu mạn tính, đau thần kinh... khiến người bệnh khó tìm được tư thế thoải mái để ngủ hoặc dễ bị đánh thức bởi cơn đau.
Bệnh tim mạch như suy tim sung huyết, tăng huyết áp có thể gây khó thở, hồi hộp, làm gián đoạn giấc ngủ.
Bệnh hô hấp như hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), đặc biệt là hội chứng ngưng thở khi ngủ (sleep apnea) gây thiếu oxy và thức giấc đột ngột nhiều lần trong đêm.
Bệnh tiêu hóa như trào ngược dạ dày thực quản (GERD) gây ợ nóng, khó chịu khi nằm.
Bệnh nội tiết như cường giáp gây tăng chuyển hóa, tim đập nhanh; tiểu đường có thể gây tiểu đêm nhiều lần.
Tiếp theo là do tác dụng phụ của thuốc. Người bệnh cần thông báo cho bác sĩ về bất kỳ tác dụng phụ nào liên quan đến giấc ngủ khi đang dùng thuốc.
Nguyên nhân tiếp theo là do sử dụng rượu, bia, chất kích thích. Nhiều người lầm tưởng rượu, bia giúp dễ ngủ, nhưng thực tế, rượu có thể giúp cơ thể dễ chìm vào giấc ngủ ban đầu nhưng sau đó lại gây gián đoạn chu kỳ giấc ngủ, khiến giấc ngủ chập chờn và thức giấc sớm.
Cuối cùng là do yếu tố nhân khẩu học. Phụ nữ, đặc biệt trong giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh, sự thay đổi hormone (estrogen và progesterone) có thể gây bốc hỏa, đổ mồ hôi đêm, làm gián đoạn giấc ngủ.
Trong khi đó, ở người cao tuổi, quá trình lão hóa tự nhiên làm thay đổi cấu trúc giấc ngủ, giảm thời gian ngủ sâu, dễ thức giấc.
Những người có tính cách hay lo âu, cầu toàn, ít chia sẻ cảm xúc cũng có nguy cơ cao hơn mắc chứng mất ngủ do khó giải tỏa căng thẳng.
Hậu quả khôn lường
Theo bác sĩ Đoàn Thị Huệ, mất ngủ mãn tính không chỉ gây ra sự mệt mỏi đơn thuần mà còn là "mồi lửa" cho hàng loạt vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, tác động lên cả thể chất, tinh thần và chất lượng cuộc sống.
Cụ thể, mất ngủ kéo dài làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính như tăng huyết áp, bệnh tim mạch (bao gồm cả nguy cơ đột quỵ), đái tháo đường type 2. Đồng thời, làm suy yếu hệ miễn dịch, khiến cơ thể dễ mắc bệnh nhiễm trùng hơn, thậm chí làm tăng nguy cơ béo phì do rối loạn hormone kiểm soát cảm giác đói và no.
Thiếu ngủ cũng làm suy giảm nghiêm trọng chức năng nhận thức. Người bệnh thường gặp khó khăn trong tập trung, suy giảm trí nhớ, khả năng tư duy và giải quyết vấn đề bị ảnh hưởng. Điều này không chỉ làm giảm hiệu suất công việc và học tập, mà còn tăng nguy cơ tai nạn giao thông và lao động do mất cảnh giác.
Người bị mất ngủ cũng thường xuyên cảm thấy chán nản, cáu kỉnh, dễ xung đột trong các mối quan hệ cá nhân, khả năng giao tiếp xã hội bị hạn chế, dẫn đến cảm giác cô lập và giảm hạnh phúc cá nhân.
Các dấu hiệu cảnh báo chứng mất ngủ
Khó vào giấc: Nằm trằn trọc hơn 30 phút mà không thể chìm vào giấc ngủ.
Khó duy trì giấc ngủ: Thức giấc nhiều lần giữa đêm, rất khó hoặc không thể ngủ lại.
Thức dậy quá sớm: Tỉnh giấc sớm hơn mong muốn và không thể ngủ lại được, cảm giác bồn chồn, lo lắng.
Giấc ngủ không phục hồi: Ngủ đủ giờ theo lý thuyết (7-8 tiếng mỗi ngày) nhưng sáng dậy vẫn cảm thấy mệt mỏi, uể oải, không sảng khoái.
Hậu quả ban ngày: Đây là yếu tố quan trọng để chẩn đoán mất ngủ. Người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ, dễ cáu gắt, giảm khả năng tập trung, trí nhớ kém, suy giảm hiệu suất trong công việc hoặc học tập.
Bác sĩ Đoàn Thị Huệ
Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai
THANH THANH