Vừa qua, VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng ban hành thông báo rút kinh nghiệm cách giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính và quyết định giải quyết khiếu nại, giữa người khởi kiện là ông L với người bị kiện là chủ tịch UBND TP C, tỉnh K.
Theo hồ sơ, ông T là chủ sử dụng các thửa đất thuộc TP C. Ngày 24-2-2023, ông T thuê ông L cải tạo, san ủi đất cho mình. Sau khi ký hợp đồng, ông L thực hiện công việc thì bị lập biên bản và xử phạt vì có hành vi khai thác khoáng sản mà không có giấy phép; khiếu nại không thành nên ông đi kiện.
Xử sơ thẩm tháng 7-2024, TAND tỉnh K chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L.
Xử phúc thẩm tháng 4-2025, TAND Cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận một phần kháng cáo của chủ tịch UBND TP C, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông L, tuyên hủy phần áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và hủy phần giải quyết khiếu nại về biện pháp khắc phục hậu quả tại quyết định giải quyết khiếu nại…
Theo VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng, thứ nhất về người thực hiện hành vi, trong các biên bản làm việc với các cơ quan chức năng ông T và ông L đều thừa nhận ông T là người thuê ông L. Ông L đều khai nhận ông là chủ sở hữu các phương tiện (xe ben, máy múc,...) và những người điều khiển máy móc, phương tiện là người làm thuê.
Như vậy, tuy hai bên thừa nhận ông T thuê ông L, nhưng ông L là người trực tiếp thực hiện hành vi vi phạm và ông L buộc phải biết các quy định của pháp luật liên quan đến công việc được thuê. Áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 2, điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi bổ sung năm 2020) thì đủ căn cứ xác định cả ông T và ông L đều cùng có hành vi vi phạm và đều phải bị xử lý về hành vi vi phạm hành chính đó.
Vì vậy, chủ tịch UBND TP C chỉ xử lý vi phạm hành chính đối với ông L mà không xử lý ông T là bỏ sót người vi phạm.
Thứ hai về lĩnh vực có vi phạm hành chính, theo khoản 1 Điều 2 Luật Khoáng sản năm 2018 và hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Địa chính, trong vụ việc này đủ cơ sở xác định đất đã khai thác ở trạng thái tích tụ tự nhiên, đã sử dụng để san gạt mặt bằng là hành vi khai thác khoáng sản (làm vật liệu xây dựng thông thường) và do vậy phải có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. Chủ tịch UBND TP C xác định hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực khoáng sản là đúng quy định.
Việc bản án sơ thẩm nhận định: "người xử phạt không có tài liệu chứng minh đất san lấp thuộc danh mục quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Khoáng sản năm 2018 nên việc đã xử phạt là không đúng hành vi vi phạm, khối lượng đất san lấp 250 m³ được các xe ben vận chuyển xuống đổ vào chỗ trũng trước nông trại của ông T. Do vậy, hành vi san gạt mặt bằng là hành vi hủy hoại đất (làm biến dạng địa hình), nếu đủ yếu tố thì xử phạt đối với ông T theo quy định tại Điều 15 Nghị định 91/2019 mới đúng với hành vi vi phạm nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L" là không đúng quy định.
Thứ ba về việc xử phạt đối với ông L, căn cứ tài liệu hồ sơ xử lý vì phạm hành chính đủ cơ sở xác định chủ tịch UBND TP C ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đúng thời hạn, thẩm quyền, trình tự, thủ tục.
Về nội dung, với khối lượng đất khai thác 250 m³ đã được các máy móc, xe chở vận chuyển đến nơi san lấp, mức phạt chính là phạt tiền 45 triệu đồng, phạt bổ sung tịch thu phương tiện sử dụng vi phạm hành chính đối với ông L là đúng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 47 Nghị định 36/2020.
Thứ tư về biện pháp khắc phục hậu quả, ông T thuê ông L thực hiện nên cả ông L và ông T cùng phải có nghĩa vụ khắc phục toàn bộ hậu quả và chịu chi phí tổ chức thi hành. Vì vậy, quyết định xử phạt vi phạm hành chính buộc ông L phải khắc phục toàn bộ hậu quả do hành vi vi phạm là không bảo đảm nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính, gây thiệt hại cho ông L.
YẾN CHÂU