Ở Vườn quốc gia Xuân Thủy có rất nhiều loài chim quý. Ảnh: Ngô Văn Chiều.
Nơi đất lành chim đậu
Đến Vườn, nếu tự khám phá, chúng tôi cũng chỉ có thể cảm nhận được không khí trong lành, dễ chịu ở nơi đã được UNESCO công nhận là vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển thế giới vùng châu thổ sông Hồng; thu được vào tầm mắt một phần nhỏ trong tổng thể không gian mênh mông của Vườn, với bạt ngàn màu xanh của rừng xú vẹt, màu nâu sậm của đất, của nước đặc quánh phù sa sông Hồng được tích tụ ở hạ nguồn, sau hành trình chuyên trở gần 1.200 km từ thượng nguồn.
Nhưng hôm ấy, với sự đồng hành của kỹ sư Ngô Văn Chiều - Phó phòng Bảo vệ tài nguyên và môi trường của Vườn - người gắn bó, thuộc từng vạt rừng, cánh chim, con nước ở đây, chúng tôi hiểu hơn thiên nhiên nơi cửa sông Hồng này kỳ diệu đến thế nào, nhất là sự đa dạng, phong phú về sinh thái, sinh học. “Vườn rộng hơn 7.110 ha, gấp 2,5 lần diện tích xã vùng đệm Giao Minh liền kề, có cửa sông, bãi bồi, có rừng ngập mặn; là nơi sinh sống của hơn 300 loài thực vật, gần 1.600 loài động vật; là bãi đẻ, nơi nuôi dưỡng và cung cấp nguồn giống của nhiều loài thủy sản, nơi trú ngụ cho nhiều loài chim di cư”, anh Chiều gợi sự tò mò. Đặc biệt, theo anh, trong số động, thực vật ở đây có 1 loài thực vật, 2 loài thú, 8 loài cá, 8 loài bò sát, 32 loài chim, 1 loài sam biển trong Sách Đỏ Việt Nam, Danh lục đỏ của Liên minh bảo tồn thiên nhiên thế giới hoặc thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo pháp luật hiện hành.
Độc đáo hơn, Vườn được biết đến là nơi đất lành chim đậu khi có tới 222 loài chim sinh sống; được xem là một “sân ga” khổng lồ của những đàn chim di trú. Theo đó, vào mùa đông, nhiều loài chim từ Siberia và các quốc gia vùng Đông bắc Á như Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản trên hành trình kiếm ăn, tránh rét đã hạ cánh ở Vườn quốc gia Xuân Thủy; lưu trú, dưỡng sức trước khi tiếp tục hành trình di trú tới Úc, New Zealand; hình thành hẳn một đường bay, một tuyến di trú trải dài từ Bắc Á xuống tận châu Úc. Chim di trú về đây có nhiều loại, trong đó có những loại rất quý hiếm như sếu đầu đỏ, cò mỏ thìa, mòng biển mỏ ngắn, mỏ vằn; choắt chân đỏ, choắt mỏ vàng, cốc biển…
Vườn quốc gia Xuân Thủy trở thành “sân ga” của những đàn chim di trú, đơn giản vì nơi đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn rộng lớn, có nguồn thức ăn phong phú, giàu dinh dưỡng là cá, tôm và nhiều loài nhuyễn thể khác; khí hậu ôn hòa, ít có bão lớn vào mùa chúng tìm đến, lại được bảo vệ nghiêm ngặt. Hằng năm, cứ vào thời điểm từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, cao điểm là từ tháng 12 đến tháng 2, không gian Vườn rợp cánh chim, cò chao liệng, khiến cư dân bản địa, khách tham quan, các nhà khoa học và nhiều “thợ săn” ảnh mê mẩn. “Đợt khảo sát năm 1988 và 1994, Vườn quan sát được trên 20.000 cá thể; đỉnh điểm, vào mùa xuân năm 1996, quan sát được trên 33.000 cá thể”, anh Chiều dẫn chứng. Anh cho biết thêm, để được công nhận là Công viên di sản ASEAN, các ứng cử viên phải đáp ứng được 12 tiêu chí, trong đó có tiêu chí “tính xuyên biên giới”. Là một “sân ga” khổng lồ, nơi đến và đi của nhiều đàn chim di trú trong nhiều năm qua, khi xét duyệt, Vườn quốc gia Xuân Thủy nhanh chóng đáp ứng được tiêu chí này.
Không chỉ là một khu bảo tồn thiên nhiên, có hệ sinh thái, sinh học đa dạng, phong phú, theo kỹ sư Chiều, rừng ngập mặn tại Vườn quốc gia Xuân Thủy còn là “bể” chứa carbon lớn của khu vực, có khả năng tích lũy tới 14,32 tấn carbon/ha/năm, trong đó carbon tồn lưu dưới mặt đất chiếm tỷ lệ trên 81%. Trong bối cảnh trung hòa carbon đang là mục tiêu, nhiệm vụ chung của toàn cầu nhằm chống biến đổi khí hậu, với khả năng trên, Vườn được ví như một “kho carbon xanh”, có vai trò, ý nghĩa chiến lược trong việc ổn định khí hậu ở khu vực.
Một góc Vườn quốc gia Xuân Thủy. Ảnh: Duy Hưng.
Bảo tồn, khai tháckhôn khéo
Trên đường du khảo, chúng tôi nhận ra nhiều hoạt động khai thác các giá trị kinh tế từ Vườn đang diễn ra, dưới bến nhiều tàu du lịch đang đợi khách, trên đê nhiều người thăm đàn ong; những tốp người, chủ yếu là phụ nữ ra, vào Vườn khai thác thủy sản.
Ông Trịnh Văn Hậu - Giám đốc Hợp tác xã Du lịch cộng đồng Giao Xuân, xã Giao Phúc cho biết: Ra đời từ một dự án hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, những năm qua, ngoài bố trí tàu phục vụ khách tham quan du lịch tại Vườn, Hợp tác xã còn tổ chức dịch vụ lưu trú tại gia đình các thành viên, tổ chức các hoạt động trải nghiệm bắt ngao, làm muối, làm nước mắm ở vùng đệm. “Vào mùa đông, chúng tôi được đón nhiều đoàn khách từ châu Âu. Họ rất mê tìm hiểu không gian, phong tục, tập quán, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, các sinh hoạt cộng đồng của cư dân vùng ven biển, cửa sông này, nhất là những ngôi nhà mái bổi, cánh đồng muối, chợ cá, lò sản xuất nước mắm thủ công, nhà thờ Công giáo hay đền, chùa”, ông Hậu chia sẻ. Ông mong muốn, Vườn sớm được đưa vào danh mục các điểm du lịch chính thức để các hoạt động du lịch ở đây được tổ chức bài bản, chuyên nghiệp hơn, qua đó phát huy được các giá trị du lịch từ Vườn và vùng đệm.
Vừa trở ra từ vùng lõi, với thành quả là một túi đầy cua, cáy - sản vật phổ biến của Vườn, chị Trần Thị Nhàn cho biết, từ nhiều năm nay, mấy chị em trong gia đình lấy việc vào Vườn moi, móc cua, cáy làm sinh kế chính. “Chúng tôi dậy từ 4h30 sáng, mang theo cơm nắm, đi gần 10 km từ nhà ở xóm 6, xã Giao Minh vào Vườn, ăn sáng xong thì bắt đầu moi, móc. Sáng đi, trưa về, chiều mang cua, cáy ra chợ bán. Tính ra ngày công cũng được 3 - 4 trăm nghìn đồng. Không nhàn nhưng được cái có thu nhập đều, ổn định, lại không phải xa nhà, vẫn có thời gian chăm lo cho gia đình”- chị Nhàn chia sẻ. Ông Nguyễn Viết Sự - Phó Chủ tịch UBND xã Giao Minh - xã vùng đệm của Vườn cho biết, nguồn lợi thủy sản ở Vườn rất lớn, do vậy nhiều người dân địa phương chọn việc đi Vườn làm sinh kế. Do Vườn được bảo vệ nghiêm ngặt nên chính quyền xã thường xuyên phối hợp với Ban Giám đốc Vườn tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến các quy định về bảo vệ, bảo tồn hệ sinh thái, sinh học ở đây, ký cam kết để người dân không vi phạm, dẫn đến bị xử lý.
Bà Trần Thị Hồng Hạnh - Trưởng phòng Khoa học, hợp tác quốc tế Vườn quốc gia Xuân Thủy cho biết, do được truyền thông, tập huấn rất kỹ nên người dân vào vườn khai thác sản vật có ý thức rất cao, chỉ sử dụng các biện pháp thủ công như moi, móc, để vừa có thể khai thác các giá trị kinh tế một cách bền vững, khôn khéo vừa không làm ảnh hưởng tới hệ sinh thái, sinh học của Vườn, theo đúng quy định tại Công ước Ramsar (Công ước bảo vệ những vùng đất ngập nước), được Việt Nam tham gia từ năm 1988. Bà Hạnh khẳng định: “Ngoài thực hiện biện pháp khai thác thủ công, mỗi người dân còn có trách nhiệm giám sát, thông tin tới các cơ quan chức năng khi phát hiện ra các hành vi sai phạm. Chính sự tham gia bảo vệ tích cực, hiệu quả của người dân đã giúp Vườn đảm bảo được tính toàn vẹn của hệ sinh thái, tiêu chí đầu tiên để được công nhận là Công viên di sản ASEAN”.
Chia sẻ của bà Hạnh làm chúng tôi nhớ tới chị Tám, một chủ đầm tôm gặp ở vùng đệm. Khi được hỏi chuyện làm ăn, chị chỉ nói ngắn gọn: “Bên này (vùng đệm) thì được phép cải tạo nuôi trồng, bên kia (vùng lõi) thì bẻ một cành cây cũng bị đi tù”. Chẳng ai bắt một người dân đi tù chỉ vì bẻ một cành cây nhưng câu nói mộc mạc của chị Tám càng cho thấy người dân ở đây đã ý thức rất rõ quyền lợi, trách nhiệm của mình, được và không được phép làm gì trong khu vực Vườn quốc gia. Cũng phải thôi, rừng ven biển được ví như “bức tường xanh” bảo vệ đê biển, bảo vệ xóm làng trước gió bão. Rừng còn thì sinh kế, nguồn sống của người dân còn và ngược lại. Ai cũng hiểu, lẽ nào người bản địa lại không?
TRẦN DUY HƯNG