Sẵn lửa, lửa mới sinh...

Sẵn lửa, lửa mới sinh...
5 giờ trướcBài gốc
Nói một cách cụ thể hơn thì tính tình chính là cá tính của ngòi bút, cá tính của người viết được thể hiện, bộc lộ qua trang viết.
Và cứ thế mà suy thì trong tập thơ “Lửa đá” (NXB Hội Nhà văn, 2022) này, chắc chắn thơ Phan Cát Cẩn khác thơ Nguyễn Hồng Công, thơ Nguyễn Hồng Công khác thơ Trần Văn Khang, thơ Trần Văn Khang khác thơ Ngô Thế Trường.
Nếu Phan Cát Cẩn luôn “đi xa để trở về gần”, nhắm “nơi ta trở về nguồn” chính là “miền đất sinh thành” với “Mùa lễ hội”: “Tháng Ba/ chạm đáy mùa xuân.../ con mắt đỏ hoa gạo/ bánh trôi nửa nổi nửa chìm...” thì Nguyễn Hồng Công lại đi từ cổng làng mình và gắn bó nó đến nỗi “cũng không quên được một hàng gạch nghiêng” để đến “làng thế giới trong toa số 5” trong hành trình “bay mỏi cánh vỡ hoàng hôn đỏ/ Lưng chừng trời bầy chim thiên di”. Nếu Trần Văn Khang muốn núp vào bóng quê nhà, “ngắm lại đời mình”, “đi chút xíu chợ/ mà gần hết cuộc đời” để day dứt khôn nguôi “bây giờ nơi đó, trên mảnh sân cố hương/ Trăng vẫn sáng mà bóng cha vắng mãi” từ trong tâm tưởng thì Ngô Thế Trường lại vạm vỡ với những va chạm, đứt gẫy, chuyển động vừa đột khởi, vừa dữ dằn: “Núi như người tình lớn/ Đè nghiêng chiều Quy Nhơn”, “Chúng ta yêu nhau cuồn cuộn bão từ/ Va chạm mở thiên hà sinh nở...”
Riêng bài “Quy Nhơn” của Ngô Thế Trường là một tứ thơ lạ, đã được tuyển chọn trong “108 áng thơ Việt” ấn hành bởi NXB Hội Nhà văn năm 2023: “Nắng ươm vàng Quy Nhơn/ Biển liếm xanh Quy Nhơn/ Núi dướn ngàn vú đất/ Lay phay mấy hạt chàm/ Ô Loan chợt thương cảm/ Đã lịm vào tóc mây/ Núi như người tình lớn/ Đè nghiêng chiều Quy Nhơn/ Mênh mang đầm Thị Nại/ Sò huyết soi gương trời/ Sông Côn dềnh lũ bãi/ Mía ngọt lòng chim sa/ Quy Nhơn tình nối tình/ Nhà sấp vào đầm phá/ Tiếng người dụ tiếng cá/ Quẫy trắng bờ lân tinh”...
Bài thơ này là một bức tranh trữ tình và sống động về vùng đất Quy Nhơn - nơi biển, núi, sông, đầm hòa quyện vào nhau trong một không gian đậm đặc cảm xúc. Bài thơ được viết với giọng điệu tha thiết, chan chứa yêu thương, gợi cảm hứng từ thiên nhiên và con người Quy Nhơn. Tác giả không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn truyền tải cảm xúc riêng - một sự rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp của thiên nhiên gắn bó với đời sống con người.
Những hình ảnh “nắng ươm vàng”, “biển liếm xanh”, “núi dướn” gợi cảm giác Quy Nhơn như một cơ thể sống, tràn đầy sinh khí. Trong đó, “Mấy hạt chàm” là một chi tiết lạ, gợi màu sắc, có thể là chỉ những vệt bóng mây hay những vệt loang sắc tím thẫm như điểm trang cho cảnh vật; “Núi như người tình lớn” - hình ảnh nhân hóa rất độc đáo. Núi không còn là cảnh mà trở thành nhân vật mạnh mẽ, bao trùm, gắn với tình yêu thể xác và tinh thần, đè nghiêng cả chiều, gợi sự áp đảo của thiên nhiên và cảm xúc; “Sò huyết soi gương trời” là hình ảnh rất đắt, thể hiện sự kết nối giữa sinh vật và thiên nhiên, giữa con người và vũ trụ.
Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo, gợi cảm nhưng không thô, luôn giữ được vẻ đẹp thi vị và nghệ thuật. Và “Quy Nhơn” không chỉ là một bài thơ miêu tả cảnh, mà là một bài thơ tình - tình yêu đối với một vùng đất, thiên nhiên và con người.
Đó là những mảnh ghép làm nên một bức tranh, mà một phần không hẳn là một phần, một phần có thể là tất cả, tất cả cũng có thể hiển lộ trong một phần. Họ gặp nhau thật ngẫu nhiên. Nhưng sẽ trở thành tất nhiên hoặc mặc nhiên, vì họ cùng gặp nhau ở một nguồn cội có tên là thi ca.
Xa xưa, Khuông Việt thiền sư đã có một bài thơ nói về sự tất nhiên ấy: “Trong cây vốn có lửa/ Sẵn lửa, lửa mới sinh/ Nếu như cây không lửa/ Cọ xát sao lửa thành?”. Vận vào “Lửa đá” và học Khuông Việt thiền sư, theo ý tôi, bài thơ có thể có thêm một bản mới: “Trong đá vốn có lửa/ Sẵn lửa, lửa mới sinh/ Nếu như đá không lửa/ Cọ xát sao lửa thành?”.
Đặng Huy Giang
Nguồn Hà Nội Mới : https://hanoimoi.vn/san-lua-lua-moi-sinh-704905.html