Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành kết luận 127 giao Đảng ủy Chính phủ chủ trì nghiên cứu định hướng sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị cấp xã, thực hiện mô hình địa phương hai cấp (tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể) bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. “Xác định quyết tâm chính trị cao nhất, triển khai thực hiện theo phương châm “vừa chạy vừa xếp hàng” để hoàn thành công việc với khối lượng rất lớn, đòi hỏi cao về chất lượng, tiến độ để trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào trung tuần tháng 4/2025”, kết luận của Trung ương nêu.
Xung quanh việc thực hiện kết luận 127 của Trung ương, Đài Hà Nội tổ chức cuộc tọa đàm “Tỉnh nào nhập với tỉnh nào?” với sự tham gia của Nhà sử học, GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; Tiến sĩ Quản trị công và chính sách Nguyễn Văn Đáng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
PV: Thưa ba vị khách mời. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành kết luận 127 giao Đảng ủy Chính phủ chủ trì lên phương án sắp xếp, sáp nhập tỉnh thành với quyết tâm chính trị cao nhất. Trước hết, tôi xin hỏi TS. Nguyễn Văn Đáng vì sao việc sáp nhập tỉnh thành được đặt ra cấp bách thời điểm này khi chỉ hơn 4 tháng trước bắt đầu phát động cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, chúng ta mới chỉ đặt vấn đề nghiên cứu thí điểm?
TS. Nguyễn Văn Đáng: Tôi cho rằng, sau hơn 4 tháng thực hiện, cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị đã đạt được kết quả hết sức tích cực. Có thể trên cơ sở, nền tảng đạt được đó, Trung ương đã cân nhắc và đưa ra chỉ đạo như nêu trong kết luận 127. Tinh thần “vừa chạy, vừa xếp hàng” rõ ràng đặt ra khối lượng công việc rất lớn cho các cơ quan chức năng trong năm 2025. Tuy nhiên, cơ sở cho quyết định hết sức quyết liệt của Trung ương là sự ủng hộ của đội ngũ cán bộ, đảng viên và dư luận xã hội. Nói cách khác, kết luận 127 đã thể hiện quyết tâm và ý chí chính trị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cũng chia sẻ với phân tích của anh Đáng, rằng cuộc tinh gọn bộ máy nhận được sự ủng hộ của cả hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội. Điều này đã tạo thêm động lực để thực hiện chủ trương sắp xếp các tỉnh thành và bỏ cấp huyện.
Thứ hai, tôi muốn nói đến tính thời điểm. Thời điểm này hội tụ đầy đủ điều kiện thì chúng ta sốc tới thực hiện để cuộc cách mạng trọn vẹn và triệt để hơn. Nếu để qua thời điểm thì rất khó thực hiện. Có thể lãnh đạo cấp cao đã nhận thấy đây là thời cơ thúc đẩy cuộc cải cách, một cuộc cách mạng thực sự về tinh gọn bộ máy.
PV: Tôi xin hỏi GS.TSKH Vũ Minh Giang, từ góc nhìn lịch sử, việc sắp xếp các đơn vị hành chính địa phương đã được thực hiện thế nào trong quá trình phát triển ở nước ta? Chúng ta rút ra được những bài học nào từ sắp xếp các tỉnh trong quá khứ?
GS. TSKH Vũ Minh Giang: Mỗi lần sắp xếp lại đơn vị hành chính trước hết thường xuất phát từ yêu cầu quản lý của nhà nước, tiếp đến là yêu cầu phát triển của đất nước nói chung và từng địa phương nói riêng.
Có thể nói trong suốt lịch sử hàng nghìn năm, chúng ta đã trải qua không ít lần thay đổi, điều chỉnh đơn vị hành chính. Những lần thay đổi cũng rất khác nhau. Tôi lấy ví dụ đầu thế kỷ 19, lần đầu tiên Việt Nam có một lãnh thổ lớn tương đương bây giờ. Lúc đó quản lý nhà nước rất khó khăn, làm sao để chính quyền Trung ương kiểm soát được các địa phương từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. Đấy là yêu cầu đầu tiên. Do vậy, vua Gia Long đã chia đất nước thành các đơn vị hành chính tương đối lạ so với sau này.
Kinh sư tức Thủ đô ở Huế, gần kinh đô là các trực dinh. Dinh không phải tỉnh nhưng cũng không phải huyện. Đây là đơn vị địa phương dưới trung ương, sát với kinh đô và nhận chế độ trực trị, tức là cái gì cũng phải báo cáo Trung ương. Xa kinh đô hơn một chút là các cơ trấn như trấn Sơn Nam, trấn Hải Dương… Chính vì phức tạp như vậy nên mới sinh ra một đơn vị hành chính hết sức đặc biệt chùm lên các trấn là Bắc kỳ và Nam Kỳ, đứng đầu là ông tổng trấn. Người Pháp gọi mô hình này là trung ương tản quyền, tức giao bớt quyền cho địa phương. Xuất phát từ nhu cầu quản lý một đất nước rộng, Trung ương không có khả năng quản lý nên giao quyền cho tổng trấn hai đầu đất nước.
Tuy nhiên, sau đó xuất hiện nhiều hệ lụy như việc lạm quyền của các vị này. Do vậy, khi lên ngôi năm 1820, vua Minh Mạng đã sắp xếp tất cả các tỉnh trở thành trực thuộc trung ương. Có thể nói con số 31 tỉnh xuất hiện đầu tiên vào thời điểm đó là cuộc cải cách rất lớn về hành chính.
Nhìn từ lịch sử có thể rút ra những bài học cho việc sắp xếp hiện nay. Thứ nhất, nhu cầu quản lý nhà nước phải tương ứng điều kiện phát triển của địa phương. Nếu chỉ xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước thì địa phương chưa chắc phát triển. Việc vua Minh Mạng thực hiện cải cách là vừa để nắm các tỉnh, vừa tạo điều kiện để các địa phương phát triển.
Bài học thứ hai là tính đến không gian văn hóa phù hợp, vừa quản lý, vừa tạo điều kiện cho tỉnh phát triển nên rất phù hợp thực tế hiện nay. Bài học thứ ba, quản lý địa phương phải đảm bảo được yêu cầu chính quyền nắm được địa phương nhưng địa phương cũng phải nắm được đơn vị của mình để đảm bảo thông suốt. Ở đây nổi lên một thực tế vẫn tồn tại đến hiện nay là vai trò của các làng. Ở Việt Nam, vai trò của các làng quan trọng lắm. Trong 1.000 năm Bắc thuộc, chúng ta mất nước chứ không mất làng. Làng là không gian tụ cư của người dân, lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống. Thời Lý, Trần dựa vào làng để quản lý và bây giờ chúng ta gọi đó là cấp cơ sở. Còn cấp trung gian thay đổi qua các thời kỳ. Bài học ở đây là nắm cơ sở mới quan trọng.
Cuối cùng là tính hiệu quả, thay đổi bao giờ cũng phải đặt tính hiệu quả lên hàng đầu. Bây giờ chúng ta cũng nói đến hiệu năng, hiệu quả. Những bài học trong lịch sử đó rất có ý nghĩa cho giai đoạn hiện nay.
Như TS. Nguyễn Văn Đáng và TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã nói, từ góc nhìn của tôi, cuộc cải cách này nhận được sự quan tâm hết sức đặc biệt và sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân. Ông Nguyễn Sĩ Dũng có nói đến tính thời điểm, tức là hệ thống hành chính của ta dường như tương đối cồng kềnh quá lâu. Số tỉnh thành hiện nay gấp đôi thời Nguyễn, không lý nào bây giờ chúng ta lại kém quản lý đến mức phải nhân đôi số tỉnh thành như thế. Bây giờ trên 700 đơn vị cấp huyện, mỗi đơn vị lại một bộ máy cồng kềnh. Chúng ta dành đến 70% ngân sách chi nuôi bộ máy cán bộ thì điều đó cũng phải suy nghĩ thật. Tính thời điểm thứ hai là chúng ta sắp chuyển sang một kỷ nguyên mới với cường độ mạnh, tốc độ nhanh thì bộ máy không thể cồng kềnh.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cũng muốn chia sẻ thêm về ý kiến của GS.TSKH Vũ Minh Giang. Tính từ thời Minh Mạng đến nay hơn 200 năm, chúng ta đã trải qua 10 lần tách nhập các tỉnh. Trung bình cứ khoảng 20 năm, chúng ta lại tách nhập tỉnh một lần. Như vậy, quá trình tách nhập diễn ra tương đối thường xuyên, nên đây không phải cái gì mới vì nó phản ánh nhu cầu của thời đại.
Thời Minh Mạng chia đất nước thành 31 tỉnh và một phủ gọi là phủ Thừa Thiên hay kinh sư như GS.TSKH Vũ Minh Giang nói. Nếu tính đây là một đơn vị cấp tỉnh thì nước ta lúc đó có 32 tỉnh. Còn thực chất đấy là một phủ, về mặt địa lý tương đối hẹp. Thời Pháp thuộc, số tỉnh lên đến 55, song sau khi đất nước chia cắt thành hai miền thì lại nhập lại. Các tỉnh phía Bắc nhập lại tương đối nhỏ, còn ở miền Nam thì lớn hơn. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, chúng ta sáp nhập 72 tỉnh thành 38. Sau một thời kỳ gộp thì lại tách ra thành 64 tỉnh. Đến năm 2008, Hà Tây nhập vào Hà Nội thì cả nước còn 63 tỉnh đến thời điểm này.
Như vậy, phải nói rằng, gần 200 năm qua là quá trình biến đổi liên tục để phù hợp nhu cầu của thời đại. Tôi nghe Thủ tướng nói có thể tinh gọn khoảng 50% số tỉnh hiện nay. Nếu như vậy, chúng ta lại trở về với 31-32 tỉnh như thời Minh Mạng. Đây có thể là sự trùng hợp chăng?.
Việc sáp nhập trong giai đoạn hiện nay cũng cho thấy một tín hiệu thời đại. Đó là thời đại số biến không gian địa lý theo một tính chất rất khác. Nền tảng khoa học công nghệ giúp chúng ta không còn phải ôm đồm, chia cắt quá nhiều đơn vị hành chính và tạo ra nền quản trị hiệu năng hơn.
TS. Nguyễn Văn Đáng: Như hai vị khách mời chia sẻ, trong lịch sử hàng nghìn năm, chuyện thay đổi địa giới hành chính của các địa phương diễn ra rất nhiều, thậm chí là ở thời kỳ hiện nay. Tuy nhiên, nếu nhìn ra phạm vi toàn cầu, chúng ta thấy chuyện tách nhập tỉnh ở các nước phát triển không xảy ra thường xuyên. Như vậy, từ bài học trong quá khứ, chúng ta phải tính đến lần sắp xếp này, làm sao để các địa phương phát triển ổn định, bền vững qua nhiều thế hệ, nhiều thế kỷ.
Bài học thứ hai là ở thời kỳ phong kiến và gần đây, việc thay đổi địa giới hành chính, sắp xếp lại các địa phương phụ thuộc ý chí của chính quyền trung ương và nhấn mạnh khả năng kiểm soát của chính quyền trung ương với các địa phương. Thế nhưng lần này, chúng ta rõ ràng không thể tư duy như thế mà phải tư duy phát triển. Nhu cầu kiểm soát tất nhiên là có nhưng mà hướng đến nền quản trị quốc gia hiện đại, đề cao sự độc lập và tự chủ của các địa phương để phát triển. Ở đây không chỉ thuần túy bó hẹp trong nhu cầu kiểm soát các địa phương. Tôi muốn bổ sung hai ý đó để các cơ quan chức năng tính toán, làm sao bố trí một cơ cấu tốt nhất, hiện đại hơn và có thể tồn tại bền vững qua nhiều thế hệ. Tôi tin đó là nguyện vọng của số đông dân chúng cũng như lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
PV: Thưa GS.TSKH Vũ Minh Giang, diện tích và quy mô dân đang là những yếu tố hàng đầu trong việc xem xét khả năng sáp nhập các tỉnh. Tuy nhiên, ở góc độ nhà sử học, ông thấy các yếu tố lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống cần được xem xét thế nào trong việc sắp xếp, sáp nhập các tỉnh?
Trước hết, tôi muốn trao đổi thêm một cái ý rất hay của TS. Nguyễn Văn Đáng là chúng ta rất cần ổn định. TS. Nguyễn Sĩ Dũng vừa rồi nói đến sự thay đổi, nhưng có lẽ thay đổi ở thời hiện đại tương đối dày (nhiều). Còn nếu nhìn lại cả nghìn năm, tôi thấy một triều đại thay đổi, sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh một lần thôi. Riêng thời Nguyễn điều chỉnh hai lần, chứ thời Trần, Lê điều chỉnh một lần, sau đó điều chỉnh nhỏ, gọi là vi chỉnh thôi. Sự ổn định của đơn vị hành chính thời Lê kéo rất dài, thời Trần cũng kéo dài cả trăm năm. Ít ra là tính ổn định phải cả thế kỷ thì những đơn vị hành chính mới không bị xáo trộn.
Một triều đại vài lần thay đổi đơn vị hành chính cũng có lý do của nó nhưng mà ở đây ta đang bàn đến yêu cầu cần thay đổi đến mức nào. Đặc trưng văn hóa của vùng miền rất quan trọng nhưng theo quan điểm của tôi, không gian hành chính chịu ảnh hưởng có mức độ thôi. Bởi vì quản lý hành chính có yêu cầu của nó và không ảnh hưởng đến không gian văn hóa. Nhiều người cứ bảo bây giờ nhập hai, ba xã vào thì còn đâu văn hóa. Nhưng văn hóa ở làng chứ không ở xã. Một xã là hai hay ba làng thì cái không gian làng nó vẫn vậy. Đơn vị hành chính. phục vụ công việc quản lý chứ không hoàn toàn trùng khít với một không gian văn hóa làng. Có thể có một không gian văn hóa rộng như vùng Trung Du, Đồng bằng Bắc bộ thì đừng đưa vào đấy một đơn vị hành chính có những đặc trưng văn hóa rất khác không gian hợp nhất ấy.
Tôi lấy ví dụ như thế song cũng không quá quan trọng không gian văn hóa. Bởi vì những cái hình thành bản sắc văn hóa trước đây tương đối hẹp, chủ yếu ở một làng, một số liên làng. Còn nói đến không gian văn hóa cấp tỉnh thì ở mức độ vừa phải thôi. Yếu tố lịch sử, văn hóa quan trọng trong việc xem xét sáp nhập tỉnh song quan trọng hơn là ở cấp nào. Giữ gìn bản sắc văn hóa không nhất thiết tính đến trong chuyện hình thành các địa giới hành chính. Bởi vì địa giới hành chính và không gian văn hóa không trùng nhau. Chúng ta có thể vẽ được địa giới hành chính song không vẽ được không gian văn hóa một vùng bởi sự giao thoa nhau.
PV: Bên cạnh tiêu chí dân số, diện tích, đặc thù lịch sử văn hóa, tiêu chí quy hoạch quốc gia và quy hoạch vùng có ý nghĩa thế nào đối với việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh?
TS. Nguyễn Văn Đáng: Trong kết luận 127 của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, chúng ta thấy quan điểm chỉ đạo rất đúng đắn. Đó là phải cân nhắc phương án sáp nhập tỉnh dựa trên quy hoạch quốc gia, đặc biệt là quy hoạch vùng. Điều này liên quan tư duy chiến lược phát triển của mỗi địa phương cũng như của các vùng sau này.
Rõ ràng là chúng ta không thể tự nhiên nghĩ ra cứ sáp nhập tỉnh này với tỉnh kia. Yêu cầu của Trung ương rất rõ là phương án sáp nhập phải căn cứ tầm nhìn và tư duy dài hạn liên quan đến vùng đấy. Theo đó, địa phương mới hình thành sau sáp nhập phải tối ưu hóa được nguồn lực, tương thích quy hoạch chiến lược phát triển quốc gia cũng như chiến lược vùng để phát huy được thế mạnh của địa phương. Sáp nhập phải trở thành động lực, tác nhân phát huy nguồn lực. Điều này đòi hỏi một cái nhìn toàn diện, tổng thể về cấu trúc kinh tế - xã hội của vùng, chứ không phải chỉ nhìn vào tỉnh này, tỉnh kia rồi nhập vào một cách cơ học.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cho rằng có rất nhiều yếu tố tác động ở đây, không chỉ văn hóa mà còn cả cái gọi là động lực phát triển, không gian phát triển. Có những tỉnh rất có điều kiện phát triển nhưng không gian lại bị bó hẹp. Bản chất của quy hoạch vùng là tạo ra không gian tương trợ nhau để tạo thành không gian phát triển và động lực phát triển.
PV: Đến thời điểm này, chúng ta dự kiến giảm 50% số tỉnh thành, tức là còn hơn 30 tỉnh thành. Cả nước hiện đang chia thành 6 vùng kinh tế - xã hội với 2 cực tăng trưởng là Hà Nội và TP.HCM. Hai thành phố này có quy mô dân số mỗi nơi trên dưới 9 triệu người, nếu sáp nhập còn trên 30 tỉnh thì dân số mỗi tỉnh còn lại hơn 2 triệu. Như vậy, liệu có thể thu gọn còn ít hơn con số 30 hay thậm chí mỗi tỉnh là một vùng kinh tế - xã hội không?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Dự kiến giảm một nửa số tỉnh thành hiện nay có lẽ đã được tính toán dựa trên rất nhiều chỉ số. Nhân nói đến vùng kinh tế, tôi phải nói thực chất cấp chính quyền và cấp hành chính là khác nhau. Nếu phân cấp đồng thời với phân quyền thì đó là phân cấp chính quyền. Phân cấp hành chính là có phân cấp nhưng không phân quyền. Bởi vì chính quyền nằm ở Trung ương, bên dưới không có quyền và chỉ phân cấp hành chính để quản lý. Khi được phân quyền, cấp chính quyền sẽ phân bổ nguồn lực, chính sách, còn nếu chỉ làm nhiệm vụ quản lý do cấp trên giao thì đấy là cấp hành chính. Theo Hiến pháp năm 1946, đất nước được chia thành 3 cấp chính quyền nhưng mà có 5 cấp hành chính. Trong đó, 3 cấp chính quyền là trung ương, tỉnh, xã; 2 cấp hành chính gồm bộ và vụ.
Chúng ta hiện có các vùng kinh tế - xã hội, vậy có cần các đơn vị hành chính để điều phối không? Nếu vậy, trở lại vấn đề bỏ cấp huyện thì đó là bỏ cấp chính quyền hay cấp hành chính? Tôi nghĩ cũng nên nghiên cứu kỹ, bởi vì có rất nhiều việc liên xã nếu không có cấp huyện thì cấp tỉnh phải làm do cấp xã không thể làm được.
TS. Nguyễn Văn Đáng: Số lượng bao nhiêu tỉnh phải dựa trên kết quả tính toán các tiêu chí, chứ không phải chúng ta tự đặt ra một số liệu cụ thể, con số cụ thể, sau đó ép xuống như thế (dưới 30 tỉnh). Đến thời điểm này, lãnh đạo Chính phủ cũng chỉ đưa ra con số giảm 50% số tỉnh, thành hiện nay.
Như hai vị khách mời đã chia sẻ, việc sáp nhập tỉnh dựa vào rất nhiều tiêu chí, chỉ sau khi tính toán rất kỹ mới biết chính xác con số bao nhiêu. Về ý kiến lập các tỉnh tương ứng vùng kinh tế - xã hội, cá nhân tôi chưa đủ căn cứ để ủng hộ phương án đó. Chúng ta có 6 vùng, tới đây lại bỏ các huyện nữa thì không gian cực kỳ lớn và quản lý rất khó. Do vậy, tôi muốn nhấn mạnh số lượng bao nhiêu tỉnh là kết quả của một phép cộng của rất nhiều tiêu chí.
GS.TSKH Vũ Minh Giang: Tôi cũng chia sẻ với ý kiến của TS. Nguyễn Văn Đáng. Chúng ta không nên bắt đầu từ con số còn lại bao nhiêu tỉnh mà bắt đầu từ tiêu chí và tính toán hiệu quả. Con số cụ thể phải là kết quả của tính toán khoa học. Tôi lấy ví dụ, Hải Dương là tỉnh lớn nhưng không có biển, nên nếu sáp nhập với Hải Phòng thì phát triển rất tích cực. Sẽ có một chính quyền điều phối được nguồn lực đất đai và cảng biển. Hay nếu Hưng Yên sáp nhập Thái Bình thì có thêm cửa biển. Đó là cái cần tính đến khi thực hiện sắp xếp các tỉnh.
Xin trân trọng cảm ơn ba vị khách mời đã tham dự tọa đàm!
Nội dung: Minh Hoàn Tổ chức sản xuất: Quang Hưng Đồ họa: Thanh Nga
Minh Hoàn
Nguồn Hà Nội TV : https://hanoionline.vn/sap-nhap-con-bao-nhieu-tinh-thanh-314240.htm