Sáu chiều không gian phát triển của TPHCM – Không gian mặt đất: Nền tảng truyền thống và bài toán tái cấu trúc đô thị TPHCM

Sáu chiều không gian phát triển của TPHCM – Không gian mặt đất: Nền tảng truyền thống và bài toán tái cấu trúc đô thị TPHCM
4 giờ trướcBài gốc
Mô hình phát triển của TPHCM dựa hoàn toàn vào mặt đất đã chạm giới hạn. Ảnh: Lê Vũ
Không gian mặt đất, tức toàn bộ phần diện tích trên bề mặt đất liền của thành phố, từ lâu là nền tảng sống và phát triển của TPHCM. Từ một đô thị nhỏ bên sông Sài Gòn hơn 300 năm trước, thành phố đã không ngừng mở rộng trên mặt đất, trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Hầu hết mọi hoạt động, từ nhà ở, giao thông, đến thương mại, công nghiệp, đều diễn ra trên tầng không gian này.
Tuy nhiên, mô hình phát triển dựa hoàn toàn vào mặt đất đã chạm giới hạn. Hạ tầng quá tải, giao thông tắc nghẽn, nhà ở khan hiếm và môi trường suy thoái cho thấy không gian mặt đất không còn đủ sức gánh nhu cầu của một siêu đô thị, đặc biệt là sau khi sáp nhập cùng Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Không gian mặt đất đối với sự phát triển của TPHCM
Đầu tiên, phải khẳng định không gian mặt đất chính là nền tảng hình thành đô thị. Lịch sử Sài Gòn - TPHCM gắn liền với việc khai phá và sử dụng đất đai. Từ thế kỷ 17-19, vùng đất Sài Gòn - Gia Định được người Việt mở mang trên vùng bưng biền, gò đất cao ven sông để tránh ngập. Thời thuộc địa Pháp, thành phố được quy hoạch theo mạng lưới ô cờ ở khu trung tâm, thiết lập nền móng hạ tầng đường bộ, kênh rạch trên mặt đất vẫn còn ảnh hưởng đến hiện tại. Sau năm 1975, TPHCM sáp nhập thêm các huyện ngoại thành, mở rộng đáng kể quỹ đất. Gần nhất, năm 2025, TPHCM sáp nhập cùng Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu để hình thành một “siêu đô thị” lớn nhất Việt Nam.
Trong suốt các thời kỳ này, thành phố phát triển chủ yếu theo chiều ngang: mở rộng khu dân cư ra vùng ven, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp trên đất nông nghiệp và dần dần hình thành các khu đô thị mới như Nam Sài Gòn (Phú Mỹ Hưng), Thủ Thiêm. Tất cả quá trình đó đều dựa trên việc chuyển đổi không gian mặt đất (tự nhiên, nông thôn) thành đất đô thị để đáp ứng nhu cầu tăng dân số và kinh tế.
Với lợi thế “đi sau” và rút kinh nghiệm, TPHCM có thể vượt lên một số mặt: ví dụ tích hợp quy hoạch không gian ngầm ngay từ đầu, xây dựng thành phố số song song thành phố thực.
Tiếp theo, không gian mặt đất chính là động lực tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa. Nhờ khai thác hiệu quả quỹ đất, TPHCM đã vươn lên thành trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam và sau khi sáp nhập, ước tính TPHCM đóng góp khoảng một phần tư GDP quốc gia. Hầu hết các khu vực phát triển trọng điểm đều tọa lạc trên không gian mặt đất chiến lược của thành phố. Không gian mặt đất cũng là nơi diễn ra đời sống văn hóa - xã hội sôi động. Tất cả tạo nên diện mạo và bản sắc riêng của thành phố. Có thể nói, không gian mặt đất truyền thống đã và đang là “sân khấu” chính cho mọi hoạt động của thành phố, từ chính thống đến phi chính thức.
Tuy nhiên, chính sự thành công đó lại đặt gánh nặng khổng lồ lên không gian mặt đất. Dân số tăng nhanh và sự tập trung quá mức các hoạt động tại lõi trung tâm đang đẩy không gian mặt đất đến giới hạn về sức chịu tải. Bước sang thế kỷ 21, dấu hiệu “khủng hoảng không gian mặt đất” ngày càng rõ: đường phố kẹt cứng xe cộ, hạ tầng quá tải, nhiều khu vực đất đai sử dụng kém hiệu quả trong khi người dân thiếu nhà ở và môi trường sống bị suy giảm. Vai trò trụ cột của không gian mặt đất giờ đây phải được nhìn nhận trong tầm nhìn mới: làm sao tái cấu trúc lại không gian này một cách hợp lý và mở rộng phát triển sang các “chiều không gian” khác để giảm áp lực.
Nói một cách tổng quan, nếu xem đô thị là một thực thể thì không gian mặt đất chính là “phần xác” cốt lõi. Nhưng để cái xác đó khỏe mạnh và phát triển, cần huy động thêm nguồn lực từ biển, trời, lòng đất (phần ngoại vi vật lý) và số, văn hóa (phần tinh thần, trí tuệ).
Thách thức lớn đối với không gian mặt đất của TPHCM
Không gian mặt đất của TPHCM đang “oằn vai” gánh những sức ép đan xen. Trước hết là mật độ dân cư và xây dựng quá cao tại lõi trung tâm. Ở nhiều khu vực nội thành, mật độ trung bình đã vượt 28.000 người/ki lô mét vuông, có điểm chạm ngưỡng 45.000 người/ki lô mét vuông. Nhà cửa chen chúc, đất dành cho cây xanh và không gian công cộng hiếm hoi, khiến mọi dịch vụ đô thị phải vận hành vượt sức thiết kế. Diện tích đất giao thông chỉ quanh mức 8-9% (so với chuẩn 20-25% của các đô thị hiện đại), nên không lạ khi mặt đường liên tục quá tải.
Tái cấu trúc không gian mặt đất không chỉ là câu chuyện quy hoạch, mà là tư duy về giới hạn và tái tạo. Khi mặt đất được “giải phóng” và kết nối với các không gian biển, bầu trời, lòng đất, số và văn hóa, TPHCM sẽ thực sự vươn mình.
Hệ quả tức thì là quá tải hạ tầng và ùn tắc giao thông. Mỗi chuyến đi giờ cao điểm có thể kéo dài hơn 40 phút. Trong khi số lượng xe máy và ô tô ngày một tăng, mạng lưới đường bộ lại mở rộng chậm. Chỉ một cơn mưa lớn hay một va chạm giao thông cũng đủ làm tê liệt các trục huyết mạch. Không chỉ giao thông, những “mạch ngầm” như cấp - thoát nước, điện, viễn thông cũng thường xuyên quá tải, chắp vá. Chất lượng dịch vụ đô thị vì thế bị kéo lùi, tác động trực tiếp đến đời sống và năng suất kinh tế.
Cùng lúc, nhà ở thiếu và phân bố dân cư lệch pha với việc làm. Dù thị trường bất động sản bùng nổ nhiều năm, thành phố vẫn thiếu hàng trăm ngàn căn nhà so với nhu cầu kế hoạch, nguồn cung lại nghiêng về phân khúc cao cấp. Người thu nhập trung bình - thấp phải ở trọ chật hẹp hoặc dạt ra ngoại ô, mỗi ngày như “con thoi” vào trung tâm. Lõi đô thị trở nên đắt đỏ và quá tải, còn vùng ven thiếu tiện ích, việc làm, tạo nên một cấu trúc không gian kém hiệu quả, biến nhiều khu vực thành “đô thị ngủ”.
Áp lực ấy còn trầm trọng hơn bởi suy giảm môi trường và thiếu hụt không gian công cộng. Diện tích xanh bình quân đầu người thấp, kênh rạch bị lấn chiếm khiến úng ngập cục bộ lặp lại theo mùa. Một phần đáng kể diện tích thành phố nằm dưới mực triều lịch sử, trong khi biến đổi khí hậu và sụt lún làm rủi ro ngập lụt tăng cao. Ô nhiễm không khí, tiếng ồn, đảo nhiệt đô thị trở thành “chi phí vô hình” mà người dân phải trả mỗi ngày.
Sau cùng, phát triển manh mún và đứt gãy kết nối liên không gian càng đẩy mặt đất đến giới hạn. Sử dụng đất chưa hiệu quả, bãi đỗ xe, kho bãi “chiếm” đất vàng, phân khu chức năng cứng nhắc khiến nhà ở tách rời nơi làm việc. Thành phố chậm tích hợp “chiều dọc” (khai thác tầng cao quanh điểm trung chuyển công cộng) và “chiều sâu” (các bãi đỗ xe, phố mua sắm, hành lang kỹ thuật ngầm). Khi bầu trời lẫn lòng đất chưa được huy động, mọi hoạt động cứ dồn lên mặt đất và vòng lặp quá tải tiếp tục siết chặt.
Tóm lại, không gian mặt đất của TPHCM đã chạm ngưỡng chịu đựng. Đây là hệ quả của phát triển dàn trải, đơn cực và hạ tầng đi sau nhu cầu. Lối đi cũ “mở rộng theo bề ngang” không còn phù hợp khi quỹ đất hữu hạn và rủi ro môi trường gia tăng. Thành phố cần bước ngoặt: tái cấu trúc mặt đất cho hiệu quả, đồng thời mở và kết nối sang các không gian mới để vừa giảm tải, vừa tạo động lực tăng trưởng chất lượng cao.
Định hướng tái cấu trúc không gian mặt đất TPHCM
Tái cấu trúc không gian mặt đất không chỉ là yêu cầu về quy hoạch mà là mệnh lệnh của phát triển bền vững. Thành phố cần chuyển mình sang một mô hình đô thị đa tầng, đa trung tâm, nơi mặt đất được tổ chức lại hiệu quả hơn và được “chia sẻ áp lực” với các không gian khác.
Dưới góc nhìn chính sách, kết hợp tư duy quy hoạch hiện đại và bài học quốc tế, có sáu định hướng trọng tâm có thể giúp TPHCM mở rộng biên độ phát triển mà không đánh mất bản sắc.
Thứ nhất, phát triển đô thị đa trung tâm, phân bổ lại dân cư và việc làm. TPHCM cần chuyển từ “một cực” sang mô hình đa cực. Định hướng “ba vùng, một đặc khu, ba hành lang, năm trụ cột” chắc chắn sẽ giải quyết được vấn đề này. Thêm vào đó, thành phố nên ưu đãi đầu tư, di dời dần trụ sở, nhà máy ra các trung tâm mới và đầu tư mạnh vào hệ thống metro, BRT và đường vành đai để kết nối vùng.
Sự chuyển đổi sang cấu trúc đa cực là một quá trình dài, nhưng cần bắt đầu ngay bằng quy hoạch và đầu tư hạ tầng định hướng nhằm “gửi tín hiệu” rõ ràng cho thị trường và người dân.
Kinh nghiệm từ Seoul và Singapore cho thấy khi phát triển mô hình đa cực, dòng người và dòng vốn tự động phân tán, giảm áp lực cho trung tâm.
Thứ hai, xây dựng giao thông công cộng và đô thị thông minh. Giao thông là mạch máu của không gian mặt đất. Thành phố cần hoàn thiện mạng lưới metro, phát triển đô thị định hướng giao thông công cộng (TOD), cải tổ xe buýt theo hướng tiện nghi, đúng giờ, thông minh. Hạn chế xe cá nhân bằng thu phí nội đô, tăng phí đỗ xe, phát triển xe điện và xe đạp công cộng. Đồng thời, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu giao thông số để điều tiết đèn tín hiệu, xử lý vi phạm, dự báo ùn tắc theo thời gian thực.
Về dài hạn, giao thông công cộng và thông minh sẽ giải phóng không gian mặt đất đáng kể: ít xe cá nhân hơn đồng nghĩa vỉa hè thông thoáng cho người đi bộ, đường sá ít phải mở rộng thêm. Nghiên cứu cho thấy các thành phố châu Á như Tokyo, Seoul nhờ mạng lưới transit tốt đã giữ thời gian đi lại bình quân dưới một giờ và tăng diện tích xanh lên 18 mét vuông/người, năng suất đô thị cao hơn. TPHCM cần hướng tới những con số tương tự, biến giao thông từ điểm nghẽn thành điểm sáng của không gian đô thị.
Thứ ba, phát triển “đô thị nén” nhằm khai thác theo chiều cao và chiều sâu. TPHCM cần đổi tư duy “trệt tầng” sang tư duy khối không gian đa chiều. Tăng tầng cao và mật độ ở quanh ga metro, khu hành chính, thương mại, giảm ở khu trung tâm lịch sử, văn hóa để bảo tồn di sản. Khuyến khích các dự án phức hợp đa chức năng (mixed-use) kết hợp nhà ở, văn phòng, dịch vụ, công viên.
Thí điểm skywalks, công viên trên mái và bãi xe ngầm như Singapore, nơi mọi hạ tầng thiết yếu được đưa xuống lòng đất để trả lại mặt đất cho con người. Khi hành lang pháp lý cho không gian ngầm và trên cao được hoàn thiện, TPHCM sẽ tăng sức chứa mà không cần thêm đất.
Tóm lại, hướng đô thị nén đòi hỏi phải phá vỡ tư duy “trệt tầng” trước đây, nhìn một khu đất như một khối lập phương có thể phát triển lên và xuống. Làm được vậy, TPHCM sẽ tăng sức chứa mà không cần thêm đất, đồng thời tạo bộ mặt đô thị hiện đại, gọn gàng hơn.
Thứ tư, phát triển nhà ở xã hội và tái thiết đô thị. Không gian mặt đất chỉ bền vững khi mọi người dân có chỗ ở phù hợp. Thành phố nên ưu đãi tín dụng và thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào phân khúc nhà ở xã hội. Đồng thời, cải tạo chung cư cũ, khu ổ chuột bằng mô hình hợp tác công - tư (PPP), giữ người dân ở lại tại chỗ như kinh nghiệm Seoul.
Thúc đẩy các dự án TOD kết hợp nhà ở giá rẻ quanh ga metro để người dân sống gần nơi làm việc, giảm nhu cầu di chuyển. Kiểm soát đầu cơ bất động sản để đảm bảo cân bằng nhà ở cho mọi tầng lớp.
Mục tiêu là để người lao động có thể ở gần nơi làm việc. Khi có một cơ cấu nhà ở cân bằng (đủ nhà cho mọi thu nhập), phân bố dân cư đô thị sẽ hợp lý hơn, người giàu không nhất thiết dồn hết vào trung tâm, người thu nhập thấp không bị đẩy ra vùng ngoại ô. Toàn bộ thành phố phát triển hài hòa trên mặt đất.
Thứ năm, mở rộng không gian công cộng và môi trường xanh. Một thành phố đáng sống phải có không gian xanh, sạch và sống động. TPHCM cần đặt mục tiêu mỗi phường, xã có ít nhất một công viên, phát triển đường đi bộ ven sông, phố đi bộ trung tâm, kết nối các trục cảnh quan xanh. Ứng dụng công nghệ trong quản lý rác, thoát nước và ngăn ngập, phát triển hồ điều tiết, rừng ngập mặn và giải pháp thiên nhiên trong đô thị.
Đặc biệt, phát triển kinh tế đêm và hoạt động văn hóa công cộng để sử dụng hiệu quả không gian 24/7, như các khu phố nghệ thuật, biểu diễn ngoài trời. Một thành phố xanh, sạch, giàu văn hóa sẽ tự nhiên thu hút nhân tài và nhà đầu tư.
Có thể thấy Seoul hay Singapore rất chú trọng công viên, cây xanh (Seoul đạt 18,74 mét vuông xanh/người năm 2023) và đưa nghệ thuật vào không gian công cộng. Kinh nghiệm đó cho thấy, khi hạ tầng cơ bản đã phát triển, nhu cầu của con người sẽ hướng đến chất lượng không gian sống. TPHCM cũng đang ở ngưỡng đó: phải cải thiện mạnh mẽ không gian công cộng thì mới giữ chân được nhân tài và xây dựng thành phố đáng sống. Một thành phố với công viên xanh mát, phố xá sạch đẹp, nhiều hoạt động văn hóa sôi động sẽ hấp dẫn người dân gắn bó và thu hút du khách, nhà đầu tư, làm nền tảng cho phát triển lâu dài.
Cuối cùng, quản lý phát triển theo hướng “thành phố thông minh”. Cần coi dữ liệu là hạ tầng mới của đô thị. TPHCM nên xây dựng nền tảng bản đồ không gian số (GIS) tích hợp 3D, quản lý hạ tầng ngầm - trên cao - dân cư - kinh tế theo thời gian thực. Đồng thời ứng dụng AI mô phỏng quy hoạch, cho phép người dân góp ý trực tuyến, phản ánh sự cố đô thị tức thì.
Thành phố thông minh giúp chính quyền ra quyết định nhanh, dựa trên dữ liệu chính xác, đồng thời nâng cao năng lực quản trị đa tầng.
Kinh nghiệm từ Singapore và Seoul đã chứng minh rằng chuyển đổi số trong quy hoạch không chỉ tiết kiệm tài nguyên mà còn giúp đô thị phát triển đồng bộ, linh hoạt và nhân văn hơn.
Thành phố thông minh sẽ liên kết chặt chẽ không gian số với không gian vật lý, hỗ trợ đắc lực cho việc vận hành các chính sách nêu trên. Ví dụ, để quản lý một đô thị đa trung tâm và nhiều tầng, cần có bức tranh toàn cảnh theo thời gian thực về mật độ dân cư, giao thông, môi trường, việc mà chỉ công nghệ mới đáp ứng nổi. Singapore, Seoul đều nổi tiếng ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông (ICT) vào quản lý đô thị, giúp họ tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên không gian. TPHCM nên đặt mục tiêu tương tự: trở thành địa phương đi đầu cả nước về chuyển đổi số trong quy hoạch, quản lý đô thị.
Tóm lại, tái cấu trúc không gian mặt đất không chỉ là câu chuyện quy hoạch, mà là tư duy về giới hạn và tái tạo. Khi mặt đất được “giải phóng” và kết nối với các không gian biển, bầu trời, lòng đất, số và văn hóa, TPHCM sẽ thực sự vươn mình.
Lợi thế của việc “đi sau”
Không gian mặt đất đã làm nên TPHCM - “hòn ngọc Viễn Đông” một thuở, và tiếp tục là nền tảng cho đô thị lớn nhất Việt Nam vươn lên tầm toàn cầu. Song, để xứng tầm là “một thế lực cạnh tranh toàn cầu hiện đại” như kỳ vọng, TPHCM không thể tiếp tục phát triển theo lối trải rộng trên mặt đất như trước. Bài toán tái cấu trúc đô thị đặt ra yêu cầu bức thiết: tối ưu hóa việc sử dụng không gian mặt đất hiện có, đồng thời khai phá các không gian mới như những “biên giới” phát triển tiếp theo.
Phân tích ở trên cho thấy, TPHCM đang chịu nhiều “bệnh đô thị lớn” điển hình nhưng đồng thời cũng có cơ hội lịch sử để chuyển mình. Kinh nghiệm từ các đô thị châu Á minh chứng rằng với tầm nhìn và quyết tâm chính sách, TPHCM hoàn toàn có thể giải được bài toán nan giải của mình. Thậm chí, với lợi thế “đi sau” và rút kinh nghiệm, TPHCM có thể vượt lên một số mặt: ví dụ tích hợp quy hoạch không gian ngầm ngay từ đầu, xây dựng thành phố số song song thành phố thực.
Điều quan trọng là các chính sách phải có tính khả thi và đồng bộ. Sự tham gia của tất cả các bên như chính quyền thành phố, chính quyền trung ương, doanh nghiệp, giới chuyên gia và cộng đồng dân cư là chìa khóa để biến những định hướng trên giấy thành hiện thực sống động.
Tái cấu trúc không gian mặt đất TPHCM không chỉ là câu chuyện kỹ thuật quy hoạch, mà là cơ hội để định hình lại tương lai đô thị theo hướng thịnh vượng bao trùm và bền vững. Một TPHCM của thế kỷ 21 cần vừa duy trì được vai trò đầu tàu kinh tế, vừa trở thành đô thị đáng sống hàng đầu, là nơi mỗi người dân, từ doanh nhân đến công nhân, từ người lớn đến trẻ em, đều có không gian để phát triển và hạnh phúc. Muốn vậy, ngay từ bây giờ, những quyết sách mạnh mẽ về không gian đô thị phải được triển khai.
(*) Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐHQG TPHCM
ThS. Huỳnh Hồ Đại Nghĩa (*)
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/sau-chieu-khong-gian-phat-trien-cua-tphcm-khong-gian-mat-dat-nen-tang-truyen-thong-va-bai-toan-tai-cau-truc-do-thi-tphcm/