Năm 2026 sẽ là mùa tuyển sinh đầu tiên diễn ra sau cuộc đại sắp xếp, tái cấu trúc đại học công lập lớn nhất lịch sử. Theo Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, khoảng 140 cơ sở đứng trước phương án sáp nhập, giảm rất sâu số đầu mối. Đây là bước đi cần thiết để nâng chất lượng và hiệu quả hệ thống.
Sáp nhập các trường đại học không chỉ là một lựa chọn
TS Lê Viết Khuyến - Nguyên Vụ trưởng Vụ Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học Bộ GD&ĐT nhận định, Việt Nam hiện có hơn 240 trường đại học và gần 400 trường cao đẳng. Phần lớn các cơ sở này có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, chất lượng đào tạo và nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
TS Khuyến cũng chỉ các vấn đề hạn chế của các trường đại học này như: Phân tán và manh mún: Nhiều trường được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ cao đẳng, nhưng thiếu nền tảng quản trị đại học hiện đại;
Chồng chéo chức năng: Các trường trong cùng một địa phương hoặc cùng ngành nghề thường đào tạo những chuyên ngành tương tự, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và lãng phí nguồn lực.
Thiếu sức cạnh tranh quốc tế: Ngoại trừ một vài đại học lớn (Đại học Quốc gia, Đại học Bách khoa Hà Nội, ĐH Y Hà Nội, v.v.), đa số các trường Việt Nam chưa có tên tuổi trong khu vực, chưa nói đến quốc tế;
Hạn chế trong nghiên cứu và đổi mới sáng tạo: Số lượng công bố quốc tế còn thấp, liên kết giữa đại học – doanh nghiệp – viện nghiên cứu yếu.
Hệ quả là hệ thống đại học Việt Nam khó tạo ra những “đầu tàu” thực sự, trong khi toàn bộ nguồn lực xã hội bị chia cắt thành những mảnh nhỏ, thiếu hiệu quả.
Nếu tiếp tục duy trì hiện trạng, giáo dục đại học Việt Nam sẽ đối mặt với những hệ lụy nghiêm trọng như suy giảm chất lượng do nguồn lực phân tán, các trường khó đầu tư cho hạ tầng, phòng thí nghiệm, đội ngũ giảng viên.
Gây lãng phí nguồn lực công khi Nhà nước phải duy trì chi ngân sách cho nhiều đơn vị nhỏ, thay vì tập trung đầu tư cho các trung tâm xuất sắc;
Mất cơ hội cạnh tranh quốc tế, trong khi các quốc gia láng giềng đã có những đại học lọt top 100, 200 thế giới thì Việt Nam vẫn loay hoay trong bảng xếp hạng khu vực;
Khó gắn kết với nhu cầu phát triển: Hệ thống đại học không cung cấp được nhân lực chất lượng cao cho các ngành chiến lược như bán dẫn, AI, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo…
“Như vậy, sáp nhập các trường đại học nhỏ, phân tán để hình thành các đại học đa lĩnh vực là yêu cầu mang tính bắt buộc, không chỉ là một lựa chọn”- TS Khuyến ý kiến
TS Lê Viết Khuyến- Nguyên Vụ trưởng Vụ Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học Bộ GD&ĐT
Tuy nhiên theo TS Khuyến, không phải trường nào cũng sáp nhập với trường nào. Việc sáp nhập cần dựa trên những tiêu chí khoa học, chặt chẽ, nhằm hình thành các đại học đa lĩnh vực bền vững.
Để quá trình sáp nhập đại học không biến thành một cuộc “hành chính hóa” máy móc, gây xáo trộn và phản ứng tiêu cực trong xã hội, cần xác lập rõ những nguyên tắc nền tảng.
Nguyên tắc vì lợi ích công: Sáp nhập không nhằm giảm số lượng cơ sở đào tạo cho có, mà nhằm tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người học và xã hội.
Nguyên tắc tôn trọng tự chủ đại học: Mỗi trường tham gia sáp nhập phải được tham khảo ý kiến đầy đủ, có quyền tham gia thiết kế mô hình mới, đảm bảo không triệt tiêu bản sắc học thuật;
Nguyên tắc minh bạch và giải trình: Quá trình sáp nhập phải công khai thông tin, giải thích rõ lý do, tiêu chí, lộ trình; tránh tình trạng áp đặt hành chính, gây hoang mang cho giảng viên, sinh viên;
Nguyên tắc hài hòa lợi ích: Sáp nhập phải tính đến lợi ích của nhiều bên: Nhà nước, nhà trường, giảng viên, sinh viên, cộng đồng địa phương. Nếu chỉ thiên về lợi ích quản lý, bỏ qua lợi ích học thuật và xã hội, quá trình sẽ thất bại;
Nguyên tắc từng bước, có lộ trình: Không nên tiến hành “sáp nhập một phát ăn ngay”, mà cần thử nghiệm, đánh giá, điều chỉnh, tránh gây sốc và lãng phí nguồn lực.
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng, hướng tới nền kinh tế tri thức, dựa trên khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để đạt mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao, Việt Nam buộc phải có một hệ thống đại học mạnh, đủ sức đào tạo nhân lực chất lượng cao và sản sinh tri thức mới.
Trong bối cảnh đó, việc duy trì một hệ thống phân tán, kém hiệu quả không những gây lãng phí mà còn kéo lùi sự phát triển quốc gia. Sáp nhập các trường đại học để hình thành những đại học đa lĩnh vực, có quy mô lớn, có năng lực nghiên cứu – đào tạo liên ngành, là giải pháp chiến lược. Đây không chỉ là yêu cầu về giáo dục, mà còn là một quyết định chính trị gắn với tương lai quốc gia.
Sáp nhập các trường có làm hẹp lại cánh cổng người học từ năm 2026?
TS Lê Viết Khuyến - Nguyên Vụ trưởng Vụ Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học Bộ GD&ĐT cho rằng, việc sáp nhập các trường đại học không ảnh hưởng đến bức tranh tuyển sinh năm 2026.
Theo TS Khuyến, việc sáp nhập sẽ ảnh hưởng đến các trường đại học công chứ trường đại học tư thì “như mở cờ” .
“Nếu trường công siết lại một chút thì cơ hội trường tư lại mở rộng. Nếu ảnh hưởng thì chỉ phụ thuộc vào học phí mà thôi. Tôi dự báo tiếp tục cung thừa so với cầu thì làm sao cửa mà đóng được. Chỉ khi sát nhập các trường đại học lại thì các trường, khi đó mới giảm bớt chi phí của trường công bởi vì chi phí đào tạo sinh viên giảm khi quy mô càng tăng. Điều này cơ hội đi học đại học sẽ mở hơn với sinh viên”- TS Khuyến nhấn mạnh.
PGS.TS Lê Hữu Lập (Nguyên phó Giám đốc HV Bưu chính Viễn thông)
Trong khi đó, PGS.TS Lê Hữu Lập (Nguyên phó Giám đốc HV Bưu chính Viễn thông) cho rằng, việc sắp xếp sẽ không ảnh hưởng đến người học, và cũng không làm hẹp lại cánh cổng người học từ năm 2026 và chỉ có lợi cho người học.
Theo PGS Lập, đại học không còn các trường yếu kém (do các trường này đã được giải thể hoặc sáp nhập vào các trường có chất lượng và quản trị đại học tốt hơn).
Mặt khác cũng theo ông Lập, nhà nước có sự đầu tư tập trung cho các trường. Qua đó sinh viên được học ở các trường sẽ có chất lượng cao hơn.
Thực ra những trường bị giải thể sẽ là những trường chưa đạt được các chỉ tiêu về kiểm định chất lượng, và thực chất họ tuyển sinh rất khó khăn, không đạt chỉ tiêu. Chất lượng sinh viên đầu vào thấp, ra trường tốt nghiệp khó kiếm việc làm.
Quá trình sáp nhập, cũng làm các trường có thương hiệu tốt lên về cơ sở vật chất (diện tích đất đai, phòng học.. ).
Tăng điểm sàn/tiêu chí tuyển sinh ở nhiều ngành hấp dẫn
TS Phạm Thái Sơn - Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông của Trường Đại học Công thương TP.HCM cho rằng, đầu tiên là sau khi sáp nhập thì các trường sẽ tập trung hơn, những trường “mạnh” sẽ gom thêm nguồn lực, tăng thương hiệu; các trường nhỏ sẽ được sát nhập hoặc tái cấu trúc, dẫn tới tập trung trong công tác tuyển sinh.
Thứ hai nữa là cạnh tranh về chất lượng và đầu vào tăng ở các trường đại học. Trường sau sáp nhập có thể tăng điểm sàn/tiêu chí tuyển sinh ở nhiều ngành hấp dẫn, nghĩa là một số ngành sẽ khó vào hơn, một số ngành sẽ vẫn khó tuyển sinh như cũ.
Thứ ba là sự "hỗn loạn thông tin" tuyển sinh làm cho thí sinh và phụ huynh dễ bị nhầm lẫn về tên trường, mã ngành, chỉ tiêu năm 2026, nếu thông tin không được công bố rõ ràng, trường dễ mất thí sinh vào đối thủ.
Thứ tư, phương thức tuyển sinh 2026 tương đối ổn định so với năm 2025, đồng thời là kỳ vọng cho việc thi tốt nghiệp THPT trên máy tính sẽ đem lại lợi ích cho học sinh. Nói chung kênh xét tuyển vẫn nhiều. Tuy nhiên các trường sẽ ráo riết chuyên môn hóa tư vấn và chuyển tải “giá trị khác biệt” của mình.
Thứ năm là tác động vùng, miền, học sinh ở địa phương có thể mất “cửa dễ”, nếu trường địa phương bị sáp nhập vào ở tỉnh khác, đồng thời có cơ hội tiếp cận chương trình tốt hơn nếu trường thực sự mạnh lên.
Cuối cùng là tăng cường liên kết doanh nghiệp, thực tập, thực hành sẽ là lợi thế về tuyển sinh. Sinh viên quan tâm đến việc làm hơn điểm số; trường nào chứng minh được mối liên kết chất lượng sẽ hút thí sinh nhanh hơn.
Đỗ Hợp (ghi)
Đỗ Hợp