Phật giáo truyền bá vào Việt Nam từ khi nào?
Theo hiểu biết hiện nay của giới nghiên cứu lịch sử thì Phật giáo vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên. Chính sử của Trung Quốc cũng đã ghi nhận rằng, vào những năm đầu Công nguyên, trong khi miền Nam Trung Quốc chưa có đạo Phật thì ở Kinh đô Giao Chỉ nước Việt đã có một trung tâm Phật giáo và Phật học khá phồn thịnh.
Chùa Dâu được cho là chùa Tổ ở khu vực Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh).
Ban đầu Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếu trực tiếp từ Ấn Độ. Có thể kể tên một số tăng sĩ Ấn Độ và Trung Á sang truyền giáo ở Việt Nam như: Ma Ha Kỳ Vực, Khưu Đa La, Khương Tăng Hội, Chu Cương Lương, Mạt Đa Đề Bà...
Đến thế kỷ V, Phật giáo đã được truyền đến nhiều nơi trên đất nước và đã xuất hiện những nhà sư Việt Nam có nhiều danh tiếng như: Huệ Thắng (học trò của Đạt Ma Đề Bà) tu tại chùa Tiên Châu.
Tuy nhiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thì từ thế kỷ thứ VI cho đến thế kỷ X vẫn được xem là giai đoạn truyền giáo của đạo Phật, song giai đoạn này các nhà truyền giáo của Ấn Độ bắt đầu giảm dần và các nhà truyền giáo của Trung Quốc bắt đầu tăng lên, dẫn theo đó bắt đầu có các phái thiền của Trung Quốc du nhập vào Việt Nam cụ thể như:
Thứ nhất: Phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi: Cuối thời kỳ hậu Lý Nam Đế, khoảng năm 580 một nhà sư Ấn Độ tên Tỳ Ni Đa Lưu Chi - là Tổ thứ ba của phái Thiền Trung Quốc đã vào Việt Nam tu tại chùa Pháp Vân (tỉnh Bắc Ninh) và trở thành vị Tổ sư của phái Thiền này ở Việt Nam.
Thứ hai: Phái Thiền Vô Ngôn Thông: Năm 820, phái Thiền Vô Ngôn Thông truyền vào Việt Nam (Vô Ngôn Thông họ Trịnh - là người Quảng Châu, Trung Quốc, tu tại chùa Song Lâm, Triết Giang). Năm 820, ông sang tu tại chùa Trấn Quốc (Hà Nội) và trở thành vị tổ sư của phái thiền này ở Việt Nam.
Theo đánh giá, mười thế kỷ đầu Phật giáo truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng đạo Phật đã tạo ra được những ảnh hưởng trong nhân dân và có những sự chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới khi đất nước độc lập, tự chủ.
Luy Lâu-Bắc Ninh: Trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất ở Việt Nam
Luy Lâu, tọa lạc tại tỉnh Bắc Ninh ngày nay, được nhiều nhà nghiên cứu và bằng chứng lịch sử khẳng định là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất ở Việt Nam. Các nhận định này dựa trên nhiều yếu tố lịch sử, khảo cổ học và văn hóa, cho thấy sự hình thành và phát triển sớm của Phật giáo tại khu vực này.
Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, Luy Lâu (khi đó là thủ phủ của quận Giao Chỉ) là một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa quan trọng.
Đây là điểm giao thoa của các tuyến đường thương mại đường biển từ Ấn Độ, Trung Á sang Trung Hoa và ngược lại. Chính nhờ vị trí đắc địa này, Luy Lâu đã sớm tiếp xúc với các nhà sư Ấn Độ và các đoàn truyền giáo Phật giáo đi theo các thuyền buôn.
Nhiều tài liệu lịch sử ghi nhận sự có mặt của các nhà sư Ấn Độ và Trung Á tại Luy Lâu từ rất sớm, có thể từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Tiêu biểu là sự hiện diện của các thiền sư như Khâu-đà-la (Kshudra), Ma-ha-kỳ-vực (Mahajivaka), Khương Tăng Hội.
Các nhà sư này không chỉ đến giảng đạo mà còn tham gia vào việc dịch kinh Phật sang chữ Hán, biến Luy Lâu thành một trung tâm phiên dịch kinh điển Phật giáo quan trọng.
Hệ thống chùa tháp và di vật khảo cổ liên quan đến Phật giáo xuất hiện dày đặc ở Bắc Ninh.
Các mảnh khuôn đúc trống đồng được khai quật ở di chỉ khảo cổ học Thành cổ Luy Lâu, phường Thanh Khương, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Các cuộc khai quật khảo cổ học tại khu vực Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) đã phát hiện nhiều di chỉ, di vật Phật giáo có niên đại sớm, bao gồm nền móng các công trình kiến trúc chùa tháp, tượng Phật, các vật thờ cúng.
Tiêu biểu là việc phát hiện dấu tích của chùa Tổ (chùa Dâu) và các chùa tháp khác trong hệ thống chùa Tứ Pháp, được cho là có nguồn gốc từ rất sớm, gắn liền với sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam.
Luy Lâu được coi là nơi Khương Tăng Hội (một nhà sư lỗi lạc gốc Khương Cư) tu hành và viết bộ Lục Độ Tập Kinh vào thế kỷ thứ III.
Ông được xem là người có công lớn trong việc kết hợp giữa Phật giáo và tư tưởng Lão Trang, tạo tiền đề cho sự phát triển của Phật giáo Thiền tông tại Việt Nam.
Sự hoạt động của các nhà sư và việc hình thành các trung tâm Phật học tại Luy Lâu cho thấy một cộng đồng Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ từ rất sớm.
Nhiều thư tịch cổ của cả Việt Nam và Trung Quốc đều đề cập đến Luy Lâu như một trung tâm Phật giáo quan trọng và sớm có ở Giao Châu.
Các tác phẩm như "Thiền Uyển Tập Anh", "Lĩnh Nam Chích Quái" hay các ghi chép của các cao tăng Trung Hoa đến Giao Châu cũng phần nào minh chứng cho điều này. Ví dụ, sách "Ngô chí" của Trần Thọ (Trung Quốc) có nhắc đến việc Sĩ Nhiếp (Thái thú Giao Châu) thường xuyên qua lại với các nhà sư Ấn Độ ở Luy Lâu.
Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) tại vùng Dâu - Luy Lâu là một biểu hiện đặc sắc của sự dung hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian bản địa. Sự hình thành và phát triển của tín ngưỡng này, với trung tâm là chùa Dâu, cũng là một minh chứng cho sự bén rễ sâu sắc và sớm sủa của Phật giáo tại đây.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc xác định một cách tuyệt đối "trung tâm cổ xưa nhất" luôn là một vấn đề phức tạp trong nghiên cứu lịch sử, đòi hỏi sự phân tích và đối chiếu nhiều nguồn tư liệu.
Dù vậy, với những bằng chứng hiện có, Luy Lâu ở Bắc Ninh có một vị thế vững chắc và được đa số các nhà nghiên cứu công nhận là một trong những cái nôi đầu tiên và quan trọng nhất của Phật giáo ở Việt Nam, nếu không muốn nói là cổ xưa nhất.
Luy Lâu, tọa lạc tại tỉnh Bắc Ninh ngày nay, được nhiều nhà nghiên cứu và bằng chứng lịch sử công nhận là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất ở Việt Nam. Các nhận định này dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm vị trí địa lý, bằng chứng khảo cổ học, ghi chép lịch sử và sự phát triển độc đáo của Phật giáo tại đây.
Trong thời kỳ Bắc thuộc (kéo dài hơn 1000 năm, bắt đầu từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên), Luy Lâu không chỉ là trung tâm hành chính, chính trị của Giao Chỉ (tên gọi Việt Nam bấy giờ) mà còn là một đầu mối kinh tế, thương mại quan trọng.
Vị trí của Luy Lâu thuận lợi cho giao thương đường biển và đường bộ, tạo điều kiện cho sự tiếp xúc và giao thoa văn hóa, tôn giáo với các nước khác, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Á.
Nhiều học giả cho rằng Phật giáo được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam qua đường biển, và Luy Lâu là một trong những điểm đến đầu tiên của các nhà sư và thương nhân Ấn Độ. Con đường này độc lập và có thể sớm hơn con đường truyền bá Phật giáo từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Các ghi chép lịch sử, dù không phải lúc nào cũng hoàn toàn nhất quán, đều đề cập đến sự hiện diện sớm của Phật giáo tại Luy Lâu. Một số tài liệu cổ của Trung Quốc và Việt Nam như "Lý Hoặc Luận" của Mâu Tử (cuối thế kỷ 2 sau công nguyên) được cho là viết tại Giao Chỉ, phản ánh sự tồn tại của một cộng đồng Phật giáo khá phát triển.
Truyền thuyết về sư Khâu Đà La (Ksụdr_a_ hay Kālarudra), một nhà sư Ấn Độ đến Luy Lâu vào khoảng thế kỷ thứ 2 sau công nguyên và Man Nương, một cô gái bản địa, cùng với sự hình thành của hệ thống tín ngưỡng Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện - thờ các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp được Phật hóa) là một minh chứng sống động cho sự bén rễ sớm của Phật giáo và sự hòa quyện với tín ngưỡng bản địa.
Chùa Dâu (còn gọi là chùa Pháp Vân, Diên Ứng tự, Cổ Châu tự, Thiền Định tự) ở Luy Lâu được coi là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, gắn liền với truyền thuyết này.
Các cuộc khai quật khảo cổ học tại khu vực Luy Lâu đã phát hiện nhiều di vật, di tích liên quan đến Phật giáo, như nền móng các công trình kiến trúc chùa tháp, tượng Phật, các vật dụng thờ cúng có niên đại từ rất sớm.
Thành cổ Luy Lâu được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, và chùa Dâu được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.
Luy Lâu không chỉ là nơi Phật giáo du nhập mà còn phát triển thành một trung tâm có tổ chức với sự hiện diện của tăng đoàn (cộng đồng các nhà sư).
Có bằng chứng cho thấy tại Luy Lâu đã diễn ra các hoạt động như dịch kinh Phật từ tiếng Phạn sang chữ Hán. Sự tồn tại của một cộng đồng tăng sĩ đông đảo được Mâu Tử đề cập trong "Lý Hoặc Luận", cho thấy Phật giáo đã có sức sống nhất định và thu hút người dân bản địa theo tu tập.
Một trong những đặc điểm nổi bật của trung tâm Phật giáo Luy Lâu là sự dung hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian bản địa của người Việt cổ, điển hình là tín ngưỡng thờ Tứ Pháp. Điều này cho thấy Phật giáo không chỉ được du nhập mà còn được bản địa hóa, tạo nên một hình thức Phật giáo mang màu sắc riêng của Việt Nam ngay từ thời kỳ đầu.
Nhiều nhà sử học và Phật học trong và ngoài nước đều đồng thuận rằng Luy Lâu là một trung tâm Phật giáo quan trọng và cổ xưa của Việt Nam. Thậm chí, có ý kiến cho rằng trung tâm Phật giáo Luy Lâu có thể đã hình thành sớm hơn cả một số trung tâm Phật giáo ở Trung Quốc như Bành Thành và Lạc Dương, và có thể đã đóng vai trò trong việc truyền bá Phật giáo đến các vùng này.
Sáp nhập tỉnh Bắc Ninh với tỉnh Bắc Giang "châu về hợp phố", mở rộng, kết nối không gian văn hóa Phật giáo
Ngày 1/2/2023, tỉnh Bắc Giang khai mạc chuyên đề "Dấu thiêng Phật giáo vùng Tây Yên Tử - Di vật ngàn năm từ lòng đất", qua đó giới thiệu gần 400 hiện vật và 60 hình ảnh khảo cổ tại các điểm di tích tôn giáo cổ gắn với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Không gian trưng bày, giới thiệu gần 400 hiện vật và 60 hình ảnh lựa chọn từ 8 điểm khai quật khảo cổ có liên quan đến các dấu tích chùa, tháp, di tích và hình ảnh về quá trình khai quật khảo cổ tại các điểm di tích, dấu tích các công trình tín ngưỡng, tôn giáo cổ gắn với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Bảo tàng tỉnh Bắc Giang lựa chọn gần 400 hiện vật là dấu tích của những công trình kiến trúc hoặc vật liệu, dụng cụ, đồ dùng, vật dụng gốm đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn...
Nhóm hiện vật là vật liệu xây dựng - trang trí kiến trúc; Nhóm hiện vật là đồ dùng, vật dụng bằng chất liệu sảnh, gốm-sứ... có liên quan đến các dấu tích chùa - tháp tử thời Lý- Trần, thế kỷ 13-14 và thời Lê- Nguyễn, thế kỷ 17-19 trên địa bàn 5 huyện: Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn, Việt Yên, Yên Thế…
Trong khuôn khổ của không gian trưng bày còn giới thiệu chi tiết những điểm chùa, di tích và hình ảnh về quá trình khai quật khảo cổ tại các điểm di tích, dấu tích các công trình tín ngưỡng, tôn giáo cố gắn với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chứng minh quy mô, sự hưng thịnh của Phật giáo từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14 tại vùng Tây Yên Tử.
Bộ mộc bản Kinh Phật của Chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) được xác lập là Bộ mộc bản Kinh Phật khắc trên gỗ thị cổ nhất thế giới.
Hơn 2000 ván kinh ở chùa Bổ Đà đều được khắc, chạm trên chất liệu gỗ thị. Các ván kinh hiện nay được xếp trên 10 giá gỗ (mỗi giá xếp gần 200 ván kinh, chia làm ba hàng), một số ván kinh lớn được xếp bên ngoài để khách tham quan dễ xem.
Hầu hết ván kinh trong kho mộc bản chùa Bổ Đà có kích thước 45 x 22 x 2,5cm (dài, rộng, dày) hoặc 60 x 25 x 2,5cm. Nhưng cũng có cả những ván kinh khổ rất lớn 150 x 30 x 2,5cm hoặc 110 x 40 x 2,5cm.
Các ván kinh được khắc bằng cả chữ Hán, chữ Nôm và chữ Phạn với nhiều loại văn bản như: Kinh, sớ, điệp, ván lục thù, bùa chú…
Trưng bày chuyên đề "Dấu thiêng Phật giáo vùng Tây Yên Tử - Di vật ngàn năm từ lòng đất" tại Khu du lịch tâm linh, sinh thái Tây Yên Tử.
Trên những tấm mộc bản đó, người xưa đã để lại dấu ấn qua nội dung, đường nét, họa tiết, hình khối điêu luyện và tinh xảo, phản ánh những tư tưởng, triết lý sâu xa của đạo Phật nói chung và dòng thiền Lâm Tế nói riêng, nổi bật trong số đó là hình khắc Đức Phật Tổ Như Lai, Phật Thích Ca tọa trên đài sen, Quan Thế Âm Bồ Tát, các vị La Hán…
Các họa tiết này mang lại giá trị thẩm mỹ cao, nét đẹp hài hòa giữa chữ và tranh, nó góp phần làm tăng thêm ý nghĩa Phật giáo và có tác động trực diện đến việc truyền thụ và tiếp nhận Phật giáo.
Việc sáp nhập tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang (dự kiến lấy tên tỉnh mới là Bắc Ninh) sẽ tái hợp một không gian văn hóa Phật giáo vốn có nhiều liên kết lịch sử sâu sắc.
Kết nối di sản Phật giáo cổ xưa khởi nguồn từ Luy Lâu, chùa Dâu (Bắc Ninh) với các trung tâm quan trọng của Thiền phái Trúc Lâm như Tây Yên Tử, chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).
Tạo ra một vùng di sản Phật giáo rộng lớn hơn, liền mạch, phản ánh sự phát triển đa dạng và liên tục của Phật giáo Việt Nam trên vùng đất Kinh Bắc xưa.
Thuận lợi cho việc quy hoạch, bảo tồn và phát huy tổng thể các giá trị di sản, đồng thời thúc đẩy các tuyến du lịch văn hóa - tâm linh kết nối các danh thắng Phật giáo nổi tiếng của cả hai khu vực.
Theo Báo Dân Việt