Sẽ có làn sóng trung tâm dữ liệu AI tại Việt Nam

Sẽ có làn sóng trung tâm dữ liệu AI tại Việt Nam
4 giờ trướcBài gốc
Trả lời phỏng vấn Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI) kéo theo nhu cầu lớn về trung tâm dữ liệu AI cho “cơn sóng AI”, ông Vladimir Kangin, CEO IPTP Networks – đơn vị đang đầu tư 200 triệu USD để xây dựng Trung tâm Dữ liệu AIDC DeCenter tại Khu công nghệ cao Đà Nẵng, nhấn mạnh rằng việc đầu tiên cần hiểu câu chuyện AI là vấn đề của quốc gia, do vậy không chỉ là chuyện về an ninh bảo mật mà còn là nhu cầu lưu trữ thông tin, người dùng bình thường cũng phải lưu trữ data, do đó trước sau cũng phải phát triển AI để tối ưu vận hành sử dụng trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia.
Theo ông, liệu sẽ có một làn sóng đầu tư trung tâm dữ liệu AI ở Việt Nam trong thời gian tới không?
Nhu cầu xây dựng trung tâm dữ liệu trước tiên đến từ thị trường, nghĩa là nếu có các doanh nghiệp phát triển về AI thì có nhu cầu sử dụng trung tâm dữ liệu AI. Trong khi các trung tâm dữ liệu siêu lớn (hyperscale) là nhu cầu tự thân của người xây ra hyperscale.
Nhu cầu đầu tiên của AI là liên quan đến quốc phòng, các hệ thống về quốc phòng. Theo cá nhân tôi, Tập đoàn Viettel sẽ đẩy mạnh về AI vì họ có vai trò và trách nhiệm liên quan tới lĩnh vực đó.
Kinh nghiệm cho thấy, thường những công nghệ sử dụng trong quốc phòng sau đó cũng được ứng dụng ngoài xã hội. Ví dụ như công nghệ định vị GPS, ban đầu được phát triển để phục vụ quân sự, nhưng sau này hầu như tất cả các loại điện thoại đều có GPS. Dẫn chứng như vậy để hiểu nhu cầu trung tâm dữ liệu AI đầu tiên chính là của quốc phòng.
Một công nghệ sinh ra, phát triển, luôn kéo theo cả một hệ sinh thái các ứng dụng liên quan, như GPS định vị nhưng làm thành Google Map, Uber, Grab…
Vậy yếu tố nào sẽ thúc đẩy việc đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu siêu lớn (hyperscale), thưa ông?
Cứ trên 100 mgw thì gọi là hyperscale và hyperscale có kiến trúc xây dựng khác với data center bình thường. Hyperscale đa phần là tập trung cho tập big tech (những tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới). Nhu cầu sử dụng của hyperscale đến từ chính nhu cầu của người xây hyperscale đó chứ không phải đến từ nhu cầu của thị trường. Ví dụ, thông thường những người xây hyperscale là những đơn vị big tech – xây ra để sử dụng – như Facebook, Amazon..
Như vậy, nhu cầu của hyperscale phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất phụ thuộc vào chính big tech đó, nếu người ta thấy có thể tiêu thụ được 100MW thì xây. Thứ hai từ tác động, chính sách chủ trương của Chính phủ.
Trong tương lai gần sẽ có khoảng 2-3 hyperscale do rất nhiều công ty big tech có động thái hay có chiến lược riêng trong việc lựa chọn bước vào thị trường Việt Nam. Nếu Việt Nam có thêm 10 – 20 hyperscale thì các big tech (ở Việt Nam) cũng phải chiếm từ 2-3 hyperscale.
Trong bối cảnh bùng nổ về trí tuệ nhân tạo kéo theo nhu cầu lớn về trung tâm dữ liệu AI, đâu là cơ hội cho IPTP Networks – tập đoàn viễn thông và hạ tầng toàn cầu với hơn 29 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực trung tâm dữ liệu, thưa ông?
Làm sớm sẽ nắm bắt được cơ hội, còn nếu sau 5-10 năm nữa sẽ trễ mất. Mục tiêu là đem công nghệ phụng sự xã hội trong công cuộc chuyển đổi số, đáp ứng nhu cầu lưu trữ AI kết hợp kênh truyền siêu tốc quốc tế cho các nền tảng số, các ứng dụng, các doanh nghiệp, vì AI là hiện tại và tương lai.
Tôi cho rằng thị trường trung tâm dữ liệu AI rất tiềm năng, tuy nhiên ngoài trung tâm dữ liệu AI thì độ trễ truyền tải đến quốc tế cũng là một vấn đề đáng cân nhắc, với hệ thống mạng lưới toàn cầu hơn 200 tuyến cáp biển và cáp đất chúng tôi đã thiết lập trong 29 năm qua, đảm bảo cung ứng kênh truyền siêu tốc (độ trễ thấp) kết nối đến các điểm cầu quốc tế theo real time (thời gian thực) trong thế giới phẳng như hiện nay. Điều này kết hợp với hạ tầng trung tâm dữ liệu sẽ hoàn hảo cho các nền tảng số, các ứng dụng xã hội mà cần tốc độ kênh truyền real time như tài chính, blockchain, healthcare, games...
Trên thế giới, xu hướng chung của các trung tâm dữ liệu, đặc biệt là trung tâm dữ liệu lớn, đang có dấu hiệu chững lại. Như ở Mỹ có một vài hyperscale bị tạm dừng, không làm nữa. Tuy nhiên ở Việt Nam thì chưa quá nhiều đến mức bão hòa và còn nhiều khoảng trống, tiềm năng lớn để đầu tư.
Một trong những yếu tố chính sẽ giữ được nhịp thị trường trung tâm dữ liệu của Việt Nam cho dù thị trường thế giới phát triển chậm là chủ trương data của Việt Nam phải lưu trữ ở Việt Nam, dẫn tới có nhất nhiều công ty ở Singapore, Hong Kong… hiện tại đang lưu trữ data của Việt Nam (ở ngoài Việt Nam) trước sau thì cũng phải chuyển về Việt Nam, tạo ra nhu cầu rất lớn cho việc lưu trữ, sử dụng trung tâm dữ liệu ở trong Việt Nam.
Một đại diện của Viettel, cách đây chưa lâu, đã đánh giá số lượng trung tâm dữ liệu ở Việt Nam phải nhân lên 15 lần nữa so với hiện nay thì mới đủ.
Theo số liệu thống kê của Cushman & Wakefield, trong khối APAC thì Việt Nam là một trong những nước có số lượng trung tâm dữ liệu nhỏ nhất so với những nước còn lại. Nếu tính đầu tư trên megawatt thì Việt Nam đang là một trong hai quốc gia có giá xây thấp nhất và tỷ suất lợi nhuận cao nhất (chỉ sau Singapore). Do đó, chỉ nhìn ở góc độ chi phí đầu tư và tỷ suất lợi nhuận đã thấy có tiềm năng. Các nước khác cũng đang đẩy mạnh phát triển trung tâm dữ liệu, như Indonesia, Malaysia.
Đà Nẵng là một trong hai thành phố được quy hoạch phát triển Trung tâm Tài chính quốc tế (cùng với TP.Hồ Chí Minh), trong đó có các mô hình kinh tế mới về blockchain, tài sản số, tiền số,… Có phải IPTP Networks xây trung tâm dữ liệu AI là để “chớp” cơ hội này không, thưa ông?
Một phần mục tiêu là như vậy, nhưng chúng tôi đã ở Đà Nẵng nhiều năm rồi. Còn cơ hội từ trung tâm tài chính, tài sản số… thì mới là xu hướng gần đây, khi Đà Nẵng đặt mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế, công nghệ, tài chính mới.
Lý do đầu tiên chúng tôi đến đây là vì địa phương có sự hỗ trợ rất tốt. Từ năm 2021 chúng tôi đã có ý tưởng mở văn phòng ở Đà Nẵng. Gần đây lại có dự án Bến cảng Liên Chiểu, Khu thương mại tự do, các điều kiện thuận lợi về cáp biển cập bờ tại đây. Nói một cách hình ảnh, trung tâm dữ liệu AI là một “phiên bản đẹp đẽ” mà chúng tôi đã ấp ủ từ lâu.
Dự tính các doanh nghiệp blockchain, tài sản số, tài chính số sẽ chiếm bao nhiêu phần trăm dung lượng trong trung tâm dữ liệu AI này?
Với IPTP Networks, khoảng 10% doanh thu sẽ đến từ blockchain vì trung tâm dữ liệu AI phục vụ đa ngành nghề, không có ngành nào chiếm phần lớn. Tuy nhiên, với xu hướng của blockchain, sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp ứng dụng công nghệ này. Đây được xem là trend tích cực nhất mà tôi nghiên cứu. Dù vậy, như tôi nói, IPTP Networks cung cấp dịch vụ toàn cầu cho đa lĩnh vực, dung lượng đến từ lĩnh vực blockchain cũng chỉ chiếm 10%, từ trước tới nay không có ngành nghề nào quá 10% (doanh số tại trung tâm dữ liệu).
Đầu tư 200 triệu USD nhưng giai đoạn đầu chỉ 20 triệu USD, vậy khi nào thì các ông giải ngân hết 200 triệu USD? Dự kiến khi nào thì doanh nghiệp sẽ hòa vốn và có lãi?
Chậm nhất là 7 năm. Tất nhiên chúng tôi sẽ giải ngân hết 200 triệu USD khi có nhu cầu thị trường và hoạt động hiệu quả và liên tục mở rộng. Trường hợp tích cực hơn thì chỉ 3-4 năm. Như thế, có nghĩa là sẽ mở thêm các dự án tiếp theo.
Trên thực tế, cứ mở ra là hết chỗ (khách đến thuê hết), vì nhu cầu thị trường rất lớn. Như thế, tôi tính nếu vận hành thật sự hiệu quả chỉ khoảng 3-4 năm là thu hồi được vốn đầu tư.
Ở Việt Nam hiện nay, các trung tâm dữ liệu chủ yếu tập trung ở Hà Nội (Khu công nghệ cao Hòa Lạc) và TP. Hồ Chí Minh (Khu chế xuất Tân Thuận). Không ít chuyên gia cho rằng quy hoạch như vậy là chưa cân bằng và đảm bảo sự bền vững, ổn định, nếu có một rủi ro nào đó là có thể bị “cắt mạch kết nối dữ liệu”. Quan điểm của ông về ý kiến này thế nào?
Hiển nhiên tập trung quá nhiều ở hai vùng là không tối ưu.
Tại các nước phương Tây có khái niệm Edge Data Center – các trung tâm dữ liệu rất nhỏ nhưng nằm gần người dùng chứ không nằm tập trung ở các phân khu như vậy mà là phi tập trung. Đối với Việt Nam, hạ tầng không phù hợp để làm như vậy.
Nước ngoài còn có khái niệm Container Data Center linh động – phục vụ cho những khu vực nhất định. Tôi cho rằng ở Việt Nam cứ mỗi 100 km dọc tuyến từ Bắc vào Nam nên có một trung tâm dữ liệu thay vì dồn vào các trung tâm tập trung, như vậy đảm bảo được tính kết nối. Thực tế thì cũng không thể “nén thêm” vào hai khu Hòa Lạc và Tân Thuận được nữa mà sẽ phải xây ở một chỗ khác nào đó. Nên cứ 100km dọc chiều dài đất nước thì xây một trung tâm dữ liệu.
Vậy, Việt Nam nên có hướng tiếp cận trong việc quy hoạch trung tâm dữ liệu như thế nào và có thể tham khảo quy hoạch trung tâm dữ liệu của quốc gia nào không, thưa ông?
Hướng tiếp cận của Việt Nam đối với viễn thông và trung tâm dữ liệu theo tôi khá bài bản. Tập trung vào tầm quan trọng đảm bảo mạng - data quốc gia. Cách làm như vậy là đúng.
Nếu có nước nào mà Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm trong việc quy hoạch mạng lưới trung tâm dữ liệu thì theo tôi đó là Trung Quốc. Vì Trung Quốc bảo hộ chủ quyền data quốc gia rất tốt.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của mình, ở góc độ vĩ mô, theo ông, Việt Nam cần có những chính sách hay chiến lược gì để thúc đẩy thị trường trung tâm dữ liệu phát triển nhanh và bền vững?
Có hai yếu tố chính.
Thứ nhất, nên cho phép các nhà mạng sử dụng các tài nguyên có sẵn như tận dụng hệ thống truyền tải điện để treo các tuyến cáp chạy song song (cả cáp điện và cáp quang). Nếu tận dụng được các tài nguyên có sẵn như vậy sẽ giảm được rất nhiều chi phí xây dựng tuyến cáp mới hoàn toàn. Nếu khai thác được các tài nguyên có sẵn sẽ giải quyết được các vấn đề về kết nối, vì điện được kéo ở khắp mọi nơi khắp đất nước, thì có thể sử dụng để kết nối hạ tầng viễn thông.
Thứ hai, các trung tâm dữ liệu lớn ở Việt Nam chưa có và chưa lan tỏa ở nhiều nơi. Trung tâm dữ liệu lớn nhất ở Việt Nam là 30 MW của Viettel ở Hòa Lạc. Vấn đề chính ở đây là điện. Theo tôi làm sao phải thay đổi, cải thiện chính sách để tạo ra nhiều nhà máy phát điện, bằng nhiều cách, gồm cả điện hạt nhân.
Cần quy hoạch dàn trải nhưng có tính kết nối - phân bổ ra và kết nối lại với nhau. Đầu tiên làm sao giải quyết được vấn đề kết nối, tận dụng hạ tầng, tài nguyên có sẵn để dùng chung, như phân tích ở trên. Ngoài ra, để phân bổ (theo tính dàn trải) thì cần có điện, vì muốn xây chỗ này mà không có điện đáp ứng cho nhu cầu của trung tâm dữ liệu thì cũng không được.
Thực tế nhiều khi các trục kênh truyền trong nước đôi khi còn đắt hơn đi quốc tế. Vậy tại sao nhiều tài nguyên rảnh rỗi mà chúng ta không tận dụng?
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 42-2025 phát hành ngày /10/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-42-2025.html
Công suất trung tâm dữ liệu của Việt Nam dự kiến đạt gần 1000MW vào năm 2030
14:30, 30/09/2025
Trung tâm dữ liệu Việt Nam trước bài toán cấp thiết về hạ tầng
08:00, 16/09/2025
40% trung tâm dữ liệu AI có nguy cơ thiếu điện vào năm 2027
08:33, 09/10/2025
Chủ đề:
Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 42-2025
Nguồn VnEconomy : https://vneconomy.vn/se-co-lan-song-trung-tam-du-lieu-ai-tai-viet-nam.htm