Sẽ đề cử di sản văn khắc núi Non Nước lên UNESCO

Sẽ đề cử di sản văn khắc núi Non Nước lên UNESCO
16 giờ trướcBài gốc
Danh thắng núi Non Nước…
Hội thảo Khoa học quốc tế “Văn khắc Hán Nôm núi Non Nước - Tiềm năng di sản tư liệu” do Sở VHTT Ninh Bình, Trường ĐH KHXH và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam phối hợp vừa tổ chức, quy tụ nhiều nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong nước và quốc tế.
“Bảo tàng” thi ca độc đáo, đa dạng
Ông Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Sở VHTT Ninh Bình cho biết, hệ thống văn khắc ma nhai trên vách đá núi Non Nước (TP Hoa Lư, Ninh Bình) có giá trị đặc biệt quan trọng. Di tích núi Non Nước không chỉ nổi tiếng với các giá trị lịch sử, văn hóa, cảnh quan đã được xếp hạng là di tích lịch sử và danh thắng quốc gia đặc biệt, mà còn là kho tàng di sản tư liệu đặc sắc.
Hệ thống văn khắc Hán Nôm trên vách đá tại đây mang nhiều ý nghĩa về lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng và văn học nghệ thuật, không chỉ phản ánh sự hiện diện và phát triển của di văn Hán Nôm tại vùng đất cố đô mà còn là minh chứng sinh động cho quá trình giao lưu văn hóa, tư tưởng, tín ngưỡng của nhiều triều đại phong kiến qua nhiều thế kỷ.
Trong tổng số 43 văn bia ma nhai hiện còn trên núi, có 37 bản văn khắc Hán Nôm niên đại trải dài từ thời Trần đến đầu thế kỷ XX, trong đó có chín bài thời Trần, ba bài thời Lê sơ thế kỷ XV, một bài văn bia thời Mạc thế kỷ XVI, bốn bài thời Lê Trung hưng thế kỷ XVII-XVIII, còn lại thuộc về thời Nguyễn.
Đây là kho tàng sử liệu, văn liệu phong phú và quý giá, qua đó góp phần xác thực, ghi lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử gắn với núi Non Nước và vùng đất Ninh Bình…; là các bản khắc độc bản các tác phẩm thơ, văn ngự chế của các vị vua, thơ đề vịnh của thi nhân, cùng nét đặc sắc thư pháp, văn tự.
Một số tác phẩm văn học có giá trị nổi bật như bia “Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký” do Trương Hán Siêu soạn và khắc vào sườn núi Dục Thúy vào năm Quý Mùi niên hiệu Thiệu Phong thứ 3 (1343) đời vua Trần Dụ Tông.
Đây là một trong những văn bia ma nhai có giá trị đặc biệt trong hệ thống ma nhai ở Việt Nam; bia “Thánh chỉ” của Thượng hoàng Trần Minh Tông khắc năm Kỷ Sửu niên hiệu Thiệu Phong (1349); bia ma nhai do Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Nhậm đề, được xem là một trong những ma nhai ít thấy ở Việt Nam...
Mặc dù vậy, hệ thống văn khắc Hán Nôm ở Non Nước vẫn còn ít được nghiên cứu một cách hệ thống, đồng bộ. Ông Cường mong muốn, hội thảo thảo luận về khả năng lập hồ sơ di sản tư liệu cho hệ thống văn khắc này; đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị gắn với phát triển bền vững và giáo dục di sản; kiến nghị các hướng đi cụ thể để bảo vệ và phát huy giá trị đặc biệt của di sản văn khắc Hán Nôm núi Non Nước trong bối cảnh hiện nay.
Với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu di sản văn hóa ở địa phương, ông Trương Đình Tưởng, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử tỉnh Ninh Bình cho rằng: “Núi Non Nước có thể coi là một bảo tàng thi ca, và nó không những đa dạng về tác giả sáng tác mà còn đa dạng về tư tưởng, biểu hiện cho Tam giáo trên tất cả các thể loại văn cổ. Đây là một bảo tàng rất độc đáo nên chúng tôi đánh giá là có giá trị lớn lao, xứng đáng trình lên UNESCO để công nhận”.
… và hệ thống văn khắc trên núi
Đáp ứng tiêu chí ghi danh
Chia sẻ kinh nghiệm xây dựng thành công hồ sơ đề cử cho Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO, theo bà Linh Anh Moreau, Tổng Thư ký Ủy ban Ký ức Thế giới Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cần áp dụng các thông lệ, đặc biệt trong các lĩnh vực nhận diện, xác định tầm quan trọng và so sánh.
Việc nhận diện hiệu quả tính xác thực bao gồm một quy trình kỹ lưỡng khi đề xuất di sản tư liệu có tiềm năng mang giá trị toàn cầu, khu vực hoặc cộng đồng. Điều này đòi hỏi nghiên cứu sâu rộng và đa dạng về các ghi chép lịch sử, bối cảnh văn hóa và đặc điểm độc đáo của hiện vật hoặc bộ sưu tập đề cử.
Việc xác lập tầm quan trọng đòi hỏi sự diễn giải dựa trên bằng chứng về lý do tại sao di sản đó lại quan trọng ở cấp toàn cầu, khu vực, quốc gia, đồng thời xem xét tính xác thực, tính toàn vẹn, tính hiếm có và những tác động của di sản đối với lịch sử và văn hóa. Cuối cùng, hồ sơ đề cử phải chứng minh được tính độc đáo của di sản được đề xuất bằng cách so sánh văn bia với các hiện vật hoặc bộ sưu tập tương tự, làm nổi bật những đóng góp khác biệt và lý do tại sao di sản thực sự nổi bật, đặc biệt xuất sắc ở quy mô thế giới hoặc khu vực.
“Việc tuân thủ những thông lệ này có thể giúp đảm bảo các hồ sơ đề cử có cơ sở vững chắc, thuyết phục và đáp ứng các tiêu chí để ghi danh vào các Danh mục Ký ức Thế giới”, bà Linh Anh Moreau chia sẻ. GS Helen Jarvis, Chủ tịch tiểu ban hồ sơ Ủy ban Ký ức thế giới UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho rằng, “không được bỏ quên vai trò của những người dân địa phương trong việc bảo tồn và phát huy các di sản. Bởi đấy cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng trong việc tạo ra tính đặc sắc của di sản, để di sản không bị lãng quên, cách để họ lan tỏa những di sản này đến cộng đồng như thế nào. Ngoài ra có rất nhiều những dấu tích về mặt lịch sử, chẳng hạn như đến núi Non Nước thấy có cả boong-ke của Pháp, rồi các dấu tích hình búa liềm trên lô cốt. Địa phương cũng cần trả lời trong hồ sơ về sự đặc sắc của di sản này trong quá trình kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ…”.
Thông qua kết quả của hội thảo và kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà khoa học, địa phương sẽ đề nghị đơn vị, cá nhân tiếp thu, hoàn thiện Hồ sơ đề cử Văn khắc Hán Nôm núi Non Nước vào Danh mục Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đảm bảo tính chính xác, toàn diện, khoa học, đạt yêu cầu đề ra.
HÀ AN
Nguồn Văn hóa : http://baovanhoa.vn/van-hoa/se-de-cu-di-san-van-khac-nui-non-nuoc-len-unesco-140718.html